Nhân Tông sùng đạo Phật, phong làm Quốc sư để hỏi việc nước, cũng như
Lê Đại Hành đối với Ngô Khuông Việt mà thôi). Dặt chức thư gia mười
hỏa
543
.
Định các chùa trong nước làm ba hạng đại, trung và tiểu danh lam, cho
quan văn chức cao kiêm làm đề cử
544
. Bấy giờ nhà chùa có điền nô và kho
chứa đồ vật, cho nên đặt chức ấy.
Mùa đông, tháng 10, xây tháp chùa Lãm Sơn.
Kỷ Tỵ, /Quảng Hựu/ năm thứ 5 [1089] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 4).
Mùa xuân, tháng 3, định các chức văn võ, quan hầu vua và các chức tạp
lưu.
Quân nhà Tống /xâm phạm/ vào châu Thạch Tê
545
.
Đào ngòi lãnh kinh
546
.
Canh Ngọ, /Quảng Hựu/ năm thứ 6 [1090] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ
5). Làm cung hợp hoan.
Tân Mùi, /Quảng Hựu/ năm thứ 7 [1091] , (Tống Nguyên Hựu năm thứ 6).
Mùa xuân, vua ngự đến Lạng Sơn xem bắt voi. Mùa Đông, tháng 11, cho
Hà Ư làm Thiếu úy tri điện tiền chư quân sự.
Lê Toàn Nghĩa dâng [12b] con rùa năm sắc.
Nhâm Thân, /Quảng Hựu/ năm thứ 7 [1092] , (Tống Quang Hựu năm thứ
8), (Ừ tháng 8 về sau là niên hiệu Hội phong năm thứ 1; Tống Nguyên Hựu
năm thứ 7). Mùa Thu, tháng 8 đổi niên hiệu làm Hội Phong năm thứ 1.
Được mùa to. Định sổ ruộng, thu tô mỗi mẫu 3 thăng
547
để cấp lương cho
quân.
Qúy Dậu, /Hội Phong/ năm thứ 2 [1093] , (Tống Nguên hựu năm thứ 8).
Cây ưu bát đàm /cây sung/
548
nở hoa.
Giáp Tuất, /Hội Phong/ năm thứ 3 [1094] , (Tống Thiệu Thánh năm thứ 1).
Mùa xuân, tháng giêng, sai Hàn Lâm học sĩ Mạc Hiển Tích sang sứ Chiêm
Thành đòi lễ tuế cống.
Mùa Hạ, tháng 4, tháp chùa Lãm Sơn xây xong.
Ất Hợi, /Hội Phong/ năm thứ 4 [1095] , (Tống Thiệu Thánh năm thứ 2).
Mùa xuân, các vương vào chầu.