Mùa thu, tháng 8, Chiêm Thành dâng voi trắng
Tân Mão, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 2 [1111] , (Tống Chính Hòa
năm thứ 1). Mùa xuân, phủ Thanh Hóa dâng cây cau một gốc 9 thân.
[16a] Mùa thu được mùa to.
Mặt trời có hai quầng.
Nhâm Thìn, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 3 [1112] , (Tống Chính Hòa
nam thứ 2). Mùa xuân, móc ngọt xuống.
Chiêm Thành dâng voi trắng.
Bấy giờ vua tuổi đã nhiều mà chưa có con trai nối dõi, xuống chiếu chọn
con của tông thất để lập làm con nối. Em vua là Sùng Hiều hầu (không rõ
tên) cũng chưa có con trai. Gặp lùc nhà sư núi Thạch Thất
557
là Từ Đạo
Hạnh đến chơi nhà, hầu nói với Đạo Hạnh về việc cầu tự. Đạo Hạnh dặn
rằng:" Bao giờ phu nhân sắp đến ngày sinh thì báo cho tôi biết trước để cầu
khấn với sơn thần". Ba năm sau, phu nhân có mang sinh con trai là [Lý]
Dương Hoán.
Quý Tỵ, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 4 [1113] , (Tống Chính Hòa năm
thứ 3). Mùa hạ, tháng 6, phu nhân của châu mục châu Chân Đăng là công
chúa họ Lý mất. (Phu nhân tên là Ngọc Kiều, con gái lớn của Phụng Càn
Vương được Thánh Tông nuôi ở trong cung, lớn lên phong làm chúa, gả
cho châu mục châu Chân Đăng là người họ Lê, chồng chết, phu nhân tự thề
ở góa, đi tu làm sư nữ, đến đây mất, thọ 72 tuổi. Thần Tông tôn làm Ni sư).
[16b] Giáp Ngọ, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 5 [1114] , (Tống Chính
Hòa năm thứ 4). Mùa xuân, tuyết điềm lành xuống.
Ất Mùi, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 6 [1115] , (Tống Chính Hòa năm
thứ 5). Mùa xuân, tháng giêng, phong ba hoàng hậu là Lan Anh, Khâm
Thiên, Chấn Bảo và 36 cung nhân, Bấy giờ vua không có con trai, cho nên
lập nhiều hoàng hậu và cung nhân, làm đàn chạy để cầu tự. Thái hậu dựng
chùa thờ Phật, trước sau hơn trăm chùa. (Tục truyền rằng thái hậu hối về
việc Thượng Dương thái hậu và các thị nữ vô tội mà bị chết, làm nhiều
chùa Phật để sám hối rửa oan).
Bính Thân, /Hội Tường Đại Khánh/ năm thứ 7 [1116] , (Tống Chính Hòa