ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ - Trang 328

Cứ 15 năm 1 lần xét duyệt, 10 năm thăng tước 1 cấp, 15 năm thăng chức 1
bậc. Chức quan nào khuyết thì chức chánh kiêm chức phó. Chánh phó đều
khuyết thì lấy quan khác tạm giữ, đợi đủ hạn xét duyệt thì bổ chức ấy.
Bấy giờ quốc gia vô sự, nhân dân yên vui, người làm quan giữ mãi một
chức, người ở quán, các 10 năm mới được xuất thân, người ở sảnh, cục 15
năm mới được xuất thân, chức tể tướng thì chọn người hiền năng trong tôn
thất, có đạo đức, tài nghệ, thông hiểu thi thư thì cho làm.
Mùa hạ, thạng, tháp trên núi Long Đội đổ.
Mùa thu, tháng 7, định lệ thi tiến sĩ, cứ 7 năm 1 khoa.
Mùa đông, tháng 12, cho Trương Mông làm Ngự sử đại phu (Mông người
Thanh Hóa, có hùng tài).
Đinh Mùi , [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 16 [1247], (Tống Thuần Hựu
năm thứ 7). Mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn kẻ sĩ. Ban cho Nguyễn
Hiền đỗ trạng nguyên [15b] Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn; Đặng Ma La đỗ
thám hoa lang. Cho 48 người đỗ thái học sinh, xuất thân theo thứ bậc khác
nhau.
Trước đây, hai khóa Nhâm Thìn (1232) và Kỷ Hợi (1239) chia làm giáp, ất,
chưa có chọn tam khôi

755

. Đến khoa này mới đặt [tam khôi].

Mùa hạ, tháng 4, động đất.
Mùa thu, tháng 8, thi các khoa thông tam giáo. Ngô Tần (người Trà Lô0 đỗ
giáp khoa, Đào Diễn, Hoàng Hoan (người Thanh Hóa) và Vũ Vị Phủ
(người Hồng Châu) đỗ ất khoa.
Mậu Thân , [Thiên Ứng Chính Bình] năm thứ 17 [1248], (Tống Thuần Hựu
năm thứ 8). Mùa xuân, tháng giêng, đổi miế hiệu của Huy Tông gọi là Thái
Tổ, Thọ Lăng gọi là Huy Lăng.
Tháng 3, lệnh các lộ đắp đê phòng lụt, gọi là để quai vạc, từ đầu nguồn đến
bờ biển, để ngăn nước lũ tràn ngập.
Đặt hà đê chánh phó sứ để quản đốc. Chỗ đắp thì đo xem mất bao nhiêu
ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền [16a]. Đắp đê quai vạc là bắt đầu từ
đó.
Mùa hạ, tháng 4, làm cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo, qua hồ Ngoạn Thiềm,

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.