Nhà Minh lập hoàng tử Hựu Đường làm Hoàng thái tử.
Ra sắc chỉ rằng: Quan Tổng binh về kinh phải có sắc thư và nội phù, khi
xét quả thực không có sai sót gì, mới được theo lệnh. Nếu chỉ có phù không
có sắc, hoặc chỉ có sắc không có phù mà dám tự tiện rời bỏ nhiệm sở, [8a]
tội nặng thì phải xử tử, tội nhẹ thì phải đi đày.
Lấy Lê Cảnh Huy làm Thái bảo Kiến Dương hầu, Lê Huy Cát làm Diên Hà
bá, Chử Phong làm Đề hình giám sát ngự sử.
Bính Thân, [Hồng Đức] năm thứ 7 [1476], (Minh Thành Hóa năm thứ 12).
Mùa xuân, tháng 2, vua thân hành ngự đến nhà Thái học, sai các văn thần
chia nhau tế ở đông vu và tây vu.
Ngày 16, nguyệt thực toàn phần.
Vua ngự về Lam Kinh.
Ngày 22, vua xuất phát từ Tây Kinh, đi thuyền nhẹ ra cửa Linh Trường
1941
, làm thơ Linh Trường hải khẩu và bài tự.
Bài tự viết:" Nhìn non ngắm nước là để ngụ cái thú của người thân, bậc
trí
1942
. Bên bờ biển, toàn là dãy núi xanh cao vút, những ngọn núi dựng
đứng ở cửa biển, hình dáng lại càng lạ hơn. Cái hang dưới chân núi, ăn sâu
mãi vào trong, thăm thẳm [8b] khôn lường, tương truyền đó là miệng một
con rồng. Bên ngoài miệng rồng lại có tảng đá, có hình thể rất lạ, tương
truyền đó là mũi rồng. Ở dưới mũi rồng, lại có một tảng đá rất tròn, rất đẹp,
tương truyền đó là hạt châu dưới hàm con rồng. Đá lớn nhô ra lõm vào
nhiều vẻ, chổ dày chổ thưa, nhiều không kể xiết, tương truyền đó là bộ râu
rồng".
Vua bỏ thuyền lên bờ, đi bộ đến đầu núi, bỗngnảy hứng thơ bèn viết 56 chữ
1943
để ghi lại.
Ngày 29, sắc dụ các quan lưu thủ Đông Kinh là bọn Thái bảo Kiến Dương
hầu Lê Cảnh Huy, Diên Hà bá Lê Hy Cát và Lại bộ thượng thư Hoàng
Nhân Thiêm rằng:
"Ngày mồng 3, tháng 3, đại giá sẽ từ Lam Kinh về. Ngày hôm đó, phải chia
quân ngăn cấm người đi lại. Ở kinh [9a] thì các tráng sĩ hộ vệ phải giữ đồn
điếm cho nghiêm ngặt. Thượng Kinh
1944
là đất căn bản, nên đặc biệt dụ