Người được truy phong thì chỉ được gia phong danh hiệu quan tước, chỉ
được một mình mà thôi, không có lương chức vụ và lệ tập ấm. Quan viên
ngày thường làm việc mà bị tai nạn cũng được phong tặng. Các quan văn
võ được sắc chỉ ban phong cho mệnh phụ, Lại bộ làm bản tâu lên, khi được
sắc chỉ thì kê rõ tước hiệu, chức phẩm tâu lên, giao cho Tư lễ giám chiếu lệ
thi hành.
Định lệ cấp ruộng cho các quan viên.
Mậu Tuất, [Hồng Đức] năm thứ 9 (1478), (Minh Thành Hóa năm thứ 14).
Mùa xuân, tháng 2, ngày 23, ra sắc chỉ cho ba ty Đô, Thừa, Hiến các xứ
người nào liêm khiết hay được xét các quan lại trong bộ thuộc của mình,
người nào liêm khiết hay tham ô, chuyên cần hay lười biếng, cùng các quan
nho học dạy dỗ nhân tài, hằng năm có người được sung cống sĩ hay không,
nhiều hay ít, đều ghi tên tâu lên [14b] để định việc thăng hay giáng.
Ra sắc chỉ cho các quan thừa tuyên, phủ huyện các xứ trông nom việc đồng
ruộng, khuyên dân lấy nước vào ruộng để kịp thời gieo cấy.
Tháng 3, tổ chức thi hội cho các củ nhân trong nước. Lấy đỗ bọn Lê Ninh
gồm 26 người.
(Lê Ninh người Thụ Ích, Yên Lạc
1953
, là ông của Hiến).
Mùa hạ, tháng 5, ngày 14, vua ra hiên, ra đề văn sách, hỏi về đế vương trị
thiên, duyệt các bài trả lời. Cho Lê Quảng Chí đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ
đệ nhị danh
1954
, Trần Bích Hoành, Lê Ninh đều đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập
đệ đệ tam danh
1955
(Quảng Chí người [xã] Thần Đầu, [huyện] Kỳ Hoa
1956
,
làm đến chức Đông Các, được tặng Thượng thư, hiệu là Hoành Sơn tiên
sinh, được phong Thượng đẳng thần, là anh của [Lê Quảng] Ý; Bích Hoành
người [làng] Vân Cát, [huyện] Thiên Bản
1957
. Bọn Nguyễn [51a] Địch
Tâm 9 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân
1958
. Bọn Nguyễn Nghiễm 50
người đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Mùa thu, tháng 8, nước to.
Định lệ vào chầu mừng cho các tù trưởng ở phiên trấn. Mỗi năm hai lần
vào chầu ở kinh. (Mỗi năm về chầu một lần vào tháng giêng, một lần vào
tháng 7). Nếu tự ý bỏ thiếu lễ chầu, một lần thì phải bãi chức, mất quan, hai