những võ quan trước đã bổ quan, sau có quân công, nhậm chức đủ hạn
khảo khoá, xứng chức, theo lệ, được thăng lên nhất, nhị phẩm thì Lại bộ
làm danh sách, xin lệnh chỉ, nếu được lệnh thì cho thăng như lệ. Nếu là con
dân, từ chân trắng được bổ nhiệm quan chức, hoặc từ chân trắng do có
chiến công được làm quan, nhậm chức đủ hạn, khảo khoá xứng chức đáng
được thăng cấp thì chỉ cho thăng đến tam phẩm, không được nhất, nhị
phẩm.
3- Trong 9 năm, nếu đã được thăng cấp do lập công khác, tới kỳ thông
khảo, lại xứng chức, đáng [60a] được thăng đến nhị phẩm trở lại thì Lại bộ
làm bản tâu lên để nhận lệnh, còn từ tam phẩm trở xuống thì cứ theo lệ mà
thi hành.
4- Quan các nha môn tại chức đủ ba kỳ khảo khóa phải khai trình đầy đủ
những việc đã làm trong nhiệm kỳ, có phạm lỗi gì hay không. Trưởng quan
phụ trách phải công bằng xét duyệt, tính bắt đầu từ ngày được bổ nhiệm.
Thí quan đủ 3 năm được thực thụ thì được coi là qua kỳ sơ khảo. Trong khi
tại chức mà có phạm lỗi thì không được khảo khoá, cùng là người không
phải do quân công mà được thăng đặc cách, thì từ khi phạm lỗi và đặc cách
thăng cấp đó, lại tính là kỳ sơ khảo. Kê rõ từng hạng xứng chức, bình
thường, không xứng chức để định việc khảo khóa.
Lại khai rõ công việc đã làm, có phạm lỗi gì không, để trình lên quan phụ
trách nha môn xét duyệt, rồi gửi cho Lại bộ giữ để xét. Đợi đủ 9 năm qua
kỳ thông khảo, quan phụ trách trình lên tất cả những công việc trước sau
mà viên ấy đã làm qua mỗi kỳ khảo khoá trong thời gian nhậm chức và
những lời nhận xét khi khảo khóa [60b], tùy theo quan chức lớn hay nhỏ,
có thể gửi để tâu lên, hoặc gửi để giữ lại. Lại bộ tham chiếu các lần khảo
trước sau, tại nơi phức tạp hay đơn giản, theo đúng lệ, làm bản tâu lên để
thi hành. Nha môn nào có kẻ gian trá, bịa khai công lao, tài cán, giấu giếm
tội lỗi, mà quan phụ trách không biết tra xét, dối trá bao che, dung túng cho
nhau, thì Lại bộ phải điều tra tường tận để gửi lên xét hỏi. Nếu có người tài
năng kỳ lạ, được lệnh đặt cách thăng bổ thì không câu nệ vào lệ này.
Định lệnh về bàn giao khi quan lại được thăng hay đổi đi nơi khác.
Kỷ Dậu, [Hồng Đức] năm thứ 20 [1489], (Minh Hoằng Trị năm thứ 2).