và được báo cáo trong một đề mục xuất hiện trên tờ báo Y khoa của hội Y sĩ Canada năm 1974. Tác
giả viết rằng:
Trong trường hợp một sự lành lặn được đánh giá như là một sự kỳ diệu, có năm tiêu chuẩn cần phải
đạt. Thứ nhất, nó phải chứng tỏ là căn bệnh tồn tại, và một sự chẩn đoán được thiết lập. Thứ hai, nó
được chứng tỏ rằng sự dự đoán, có hay không có sự chữa trị, cho biết là bệnh tình yếu kém; thứ ba,
rằng căn bệnh trầm trọng và không thể chữa được, thứ tư, sự chữa lành xảy ra không trải qua thời kỳ
dưỡng bệnh, có nghĩa là nó xảy ra ngay lập tức; và cuối cùng, sự lành bệnh có tính chất vĩnh viễn.
Những tiêu chuẩn này phải được thông qua bởi văn phòng Y khoa của Lộ Đức, nhà thờ, và giáo khu
trong đó "người được làm phép lạ" sinh sống.
Tại Lộ Đức, mỗi một trường hợp đều được xem xét bởi ba ban bác sĩ. Từ năm 1947, chỉ có 75 trường
hợp được chấp nhận vào cấp độ thứ nhất. Trong đó, 52 được chấp nhận như ở cấp độ thứ hai, và chỉ
27 trường hợp được đánh giá như là điều khoa học không thể giải thích được ở mức độ thứ ba. Sau
khi những ban bác sĩ quyết định về chuyện lành lặn kỳ diệu, nhà thờ mới ra quyết định về chuyện
những trường hợp không giải thích này là kết quả của sự can thiệp của đấng thiêng liêng. Hồ sơ sẽ
được gửi đến một giáo khu địa phương, nơi đó vị giám mục địa phương sẽ thành lập một ủy ban để
xem xét bằng chứng. Những ủy ban này thường thường còn nghiêm khắc hơn ủy ban Y khoa ở Lộ Đức
nữa, vì từ 27 trường hợp nói ở trên, chỉ có 17 trường hợp được công nhận là kỳ diệu bởi hội đồng
giám mục địa phương.
Câu chuyện của ông Vittorio Micheli, sinh ngày 6 tháng 2 năm 1940, là một trong 17 trường hợp kỳ
diệu được công nhận:
Vittorio Micheli được thâu nhận vào quân đội Ý vào tháng 11 năm 1961, được coi là thể chất khỏe
mạnh, dù ông có chỉ ra những chỗ đau nhỏ vào tháng Ba năm ấy. Vào tháng tư năm 1962 ông đến bệnh
viện quân y Verona than phiền về những chỗ đau chỗ vùng bên trái bàn tọa và vùng hông. Những cuộc
khám nghiệm tổng quát, chiếu quang tuyến X và thí nghiệm mẫu thịt nơi đau (biopsies) đã dẫn đến sự
phỏng đoán là bệnh nhân này bị ung thư xương vùng xương chậu trái.
Vào khoảng tháng 6 tình trạng càng thêm tệ hại và chuyện chiếu quang tuyến cho biết rằng "sự phá hủy
gần như hoàn toàn vùng xương chậu trái", đây là theo hồ sơ lưu trữ của quân đội. Micheli được đặt
vào trong một bộ phận nâng đỡ từ đầu đến chân, với bộ phận này ông ta có thể đứng và di chuyển
chung quanh. Vào tháng tám, ban quân y gửi ông ta đi điều trị quang tuyến nhưng sau ba ngày thì kết
luận rằng trường hợp này không thể điều trị theo lối quang tuyến được. Chuyện điều trị được chuyển
sang phương pháp hóa học (chemotherapy) nhưng sau hai tháng không có sự tiến bộ nào rõ rệt và
phương pháp này coi như ngưng lại. Vào tháng 11 quang tuyến X cho thấy đầu xương đùi đã sai khớp
và vào tháng giêng thì xương đùi đã mất chỗ nối với xương chậu.
Tháng Năm sau đó Micheli quyết định đi Lộ Đức. Ông được đổi một bộ phận nâng đỡ chắc chắn hơn
và sự khám nghiệm cho biết mông bên trái bị khuyết hãm. Bệnh nhân coi như hoàn toàn mất khả năng
kiểm soát chân trái của ông. Sự đau đớn rất nhiều và liên tục nên phải dùng thuốc giảm đau. Ông ta
không thể đứng được nữa. Ông cũng bị chứng ăn mất ngon và có thêm những vấn đề tiêu hóa nữa.
Tại Lộ Đức, Micheli vẫn mang bộ phận nâng đo và nhảy vào trong những bồn tắm. Ngay lập tức ông
cảm thấy đói, đây là một đặc điểm của cách chữa trị Lộ Đức. Sự đau đớn biến mất, theo như lời ông
kể lại sau này khi được xem xét kỹ lưỡng, ông có cảm giác là chân trái của ông tái gắn liền với xương
chậu. Ông cảm thấy khỏe khoắn vô cùng.
Nhưng ông không nhảy ra khỏi bồn tắm và chạy ra khỏi hang động. Bộ phận nâng đỡ vẫn bao quanh
lấy ông. Thực ra, cho dù Micheli tin rằng ông đã được cứu chữa, những bác sĩ trong quân y không tin
như thế. Nhưng trong vòng một tháng Micheli đã đi lại được, dù với bộ phận nâng đỡ. Trong tháng
tám những biểu đồ quang tuyến cho thấy bệnh ung thư xương đã giảm xuống và xương ở vùng xương