ngờ về các phương pháp tiếp cận yếu tố mục đích của đạo đức so với hành
vi phi đạo đức. Đúng là sự chủ ý có thể lái các phản hồi theo hướng hành vi
đạo đức nhưng không phải đúng cho mọi trường hợp và mọi quyết định.
Ann và đồng nghiệp của cô ấy, Kristin Smith-Crowe đã cho rằng: “người
‘tốt’ và ‘xấu’ đưa ra các quyết định ‘tốt’ và ‘xấu’” vì thế có thể xác định và
hiểu được các quyết định đạo đức có chủ ý và không có chủ ý là rất quan
trọng. Các cách tiếp cận truyền thống đã bỏ qua vế sau.
Các biến số mà mô hình các quyết định đạo đức của Rest đã tóm tắt
được là rất quan trọng. Nhưng một số yếu tố của mô hình này – nhận thức
đạo đức, một thứ tự tập hợp các giai đoạn và sự chủ ý (có mục đích) vẫn
chưa làm rõ được các yếu tố then chốt dẫn đến các hành vi phi đạo đức
trong hoạt động của các tổ chức. Bằng cách bỏ qua các quyết định đạo đức
xảy ra mà không có nhận thức đạo đức, mô hình này đã bỏ qua không xem
xét đến một phần đáng kể các quyết định phi đạo đức và những lý do đằng
sau chúng.
Một nhánh của trường phái triết học mới nghiên cứu về hành vi thực tế
được gọi là triết học thực nghiệm đã trả lời cho một số quan điểm phê phán
của chúng tôi. Những kẻ nổi loạn (rebels) triết học, với hy vọng làm rõ hơn
những vấn đề triết học truyền thống đã tiến hành các thí nghiệm nhằm thu
thập thông tin về các phán xét/ phán quyết mà con người thật sự thực hiện
khi đối mặt với các tình thế khó xử về đạo đức.
này được kỳ vọng sẽ cung cấp những thông tin giá trị về cách con người
hành xử trong thực tế. Tuy nhiên, vào giai đoạn này, nó chỉ đại diện cho
một nhóm nhỏ các nhà triết học có phần biệt lập và công trình của họ chưa
gây ảnh hưởng gì đến các cách tiếp cận truyền thống về đào tạo đạo đức.
Nếu các cách tiếp cận triết học không cung cấp chìa khóa cần thiết để
làm giảm các hành vi thiếu đạo đức trong các tổ chức thì cái gì sẽ cung
cấp? Mở cánh cửa đến với các hành vi thiếu đạo đức yêu cầu phải có sự
thấu hiểu các ảnh hưởng tinh tế lên các hành vi của chúng ta – những ảnh