Nguyễn Tử Quang
Điển hay tích lạ
Chu Công thổ bộ
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị
nước.
"Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn
phải nhả cơm ba lần".
Nhà Thương (Ân) truyền được 600 năm thì đến vua Trụ tên Ân Thọ là vua
dâm bạo. Văn vương Cơ Xương vẫn thờ nhà Ân nhưng đến con là Võ
vương tên Cơ Phát hội các chư hầu phạt Trụ, diệt nhà Ân lên ngôi, đóng đô
ở Cảo Kinh, đặt quốc hiệu là Chu, tức là Tây Chu.
Võ vương làm vua, em là Chu Công Đán giúp việc chính trị, tôn trọng
chiêu đãi người hiền. Chu Công xem gương hưng vong của các đời Đường,
Ngu, Hạ, Thương, thấy rằng chỉ là do chư hầu (các tù trưởng) phục hay bất
phục nên đem đất đai chiếm được phong lại cho các tù trưởng cũ. Chỉ có
các địa điểm trọng yếu thì phong cho các công thần cùng con em để khống
chế chư hầu cũ và làm hàng rào cho vương thất.
Chư hầu mới cũ đều theo đất phong lớn nhỏ mà chịu tước Công, Hầu, Bá,
Tử, Nam. Đất phong của Công, Hầu là 100 dặm vuông, của Bá là 70 dặm,
của Tử , Nam là 50 dặm. Người được đất không đến 50 dặm gọi là phụ
dung.
Chu Công lại đặt ra lễ nhạc, mỗi nghi thức ở triều đình, mỗi trật tự trong
gia tộc đều được quy định chặt chẽ. Về nông nghiệp, Chu Công đặt phép
tỉnh điền. Một khoảng đất rộng chừng 5, 6 trăm mẫu chia làm 9 khu theo
hình chử "tỉnh". Tám gia đình chia nhau 8 khu ở chung quanh và phải
chung sức cày cấy khu ở giữa để nộp cho vua. Phép tỉnh điền có lợi là làm
cho đất đai tài sản nhân dân khỏi chênh lệch.
Sử chép dưới triều này, nước Việt Nam lúc bấy giờ gọi là Việt Thường, sai