Cách mạng báo chí Trung Quốc
Vụ Băng điểm cho thấy báo chí thương mại hóa mới và mạng Internet ở
Trung Quốc đã hoàn toàn làm thay đổi tình hình chính trị nội bộ và làm
phức tạp hóa bối cảnh trong nước ảnh hưởng việc hoạch định chính sách đối
ngoại của Trung Quốc ra sao.
Trước thời kỳ cải cách, như chúng ta đã biết, Trung Quốc không có báo
chí, chỉ có tuyên truyền. Đảng Cộng sản rất lo sợ dư luận và đầu tư các
nguồn lực khổng lồ vào việc định hướng dư luận. Mục đích duy nhất của
truyền thông là làm chiếc loa phóng thanh để vận động quần chúng ủng hộ
các chính sách của Đảng. Truyền thông được gọi là “miệng lưỡi” của Đảng,
một cụm từ mà các nhà báo trẻ ngang tàng ngày nay thường dùng để nhạo
báng một cách thích thú. Người dân Trung Quốc tiếp cận các thông tin trong
nước và thế giới na ná nhau thông qua một vài cơ quan thông tấn báo chí
chính thống bị kiểm duyệt. Năm 1979, chỉ có 69 tờ báo trên cả nước, tất cả
đều do các cơ quan của Đảng và chính phủ quản lý. Đến năm 2005, Trung
Quốc đã xấp xỉ 2.000 tờ báo và 9.000 tạp chí.
Các bức ảnh trang nhất tô vẽ quan chức địa phương và chính phủ, và tất
cả các bài báo đều ca ngợi những thành tích của lãnh đạo theo lối văn công
thức và nặng ý thức hệ. Tin tức địa phương như các vụ hỏa hoạn hay tội
phạm hiếm khi được đăng tải. Tin tức quốc tế hiếm hoi phụ thuộc vào hãng
thông tấn của chính phủ là Tân Hoa Xã. Người ta đọc, hay giả bộ đọc, Nhân
dân Nhật báo và các tờ báo chính thống khác mỗi sáng khi đi làm – tất cả
các công sở và nhà máy bắt buộc phải mua những tờ này. Bản tin 7 giờ tối
trên Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV), chương trình truyền
hình ở giờ vàng của cả nước, đưa lại những gì đã đăng trên tờ Nhân dân.
Để Trung Quốc chuyển mình thành một nền kinh tế hiện đại và cởi mở,
lại tiết kiệm tiền cho chính phủ, Đảng Cộng sản quyết định từ bỏ độc quyền
cung cấp thông tin cho người dân và cho phép các tờ báo, tạp chí, các kênh
truyền hình phát thanh, các nhà cung cấp dịch vụ Internet cạnh tranh trên thị