Khi phân tích những khám phá trong nghiên cứu của NDERF, tôi có
được chín lý do để chứng minh được sự tồn tại của sự sống sau cái chết.
Mỗi bằng chứng đều có kèm theo một lời bình ngắn. Trong Chương 9 của
quyển sách này, tôi phân tích kỹ từng bằng chứng để bạn hiểu tại sao tôi
đưa ra được kết luận này: Có sự tồn tại của sự sống sau cái chết.
BẰNG CHỨNG VỀ KIẾP SAU
1. Ở góc độ y học, khó có thể giải thích được tại sao lại có một trải
nghiệm minh mẫn, mạch lạc và chặt chẽ như thế diễn ra trong trạng thái
hôn mê hoặc chết lâm sàng. Trong nghiên cứu của NDERF, cận tử được
định nghĩa là cơ thể bị tổn thương đến mức cái chết chắc chắn sẽ xảy ra, trừ
khi điều kiện thể chất được cải thiện được tốt hơn. Những người cận tử
thường bị hôn mê hoặc có thể chết lâm sàng, không còn hơi thở và nhịp
tim.
Để hiểu rằng một trải nghiệm minh mẫn trong khi chết lâm sàng là
điều vô cùng kỳ diệu, ta cần phải biết rằng khi tim ngừng đập, ngay lập tức
máu ngừng chảy về não. Sau khi máu ngưng chảy về não từ 7 đến 10 giây,
các hoạt động thần kinh đều ngừng lại. Hoạt động của não được đo bằng
máy ghi điện não đồ (EEG), đây là phương pháp đo hoạt động điện của
não. Khi não ngừng hoạt động, đồng hồ hiển thị của EEG thể hiện một
đường thẳng ngang, nghĩa là không còn tín hiệu hoạt động điện não.
Ở góc độ y học, tôi không thấy bất kỳ trải nghiệm có ý nghĩa nào có
thể xảy ra khi sắp chết. Có phải những người sắp chết thường không còn tri
giác? Có phải thuật ngữ “hôn mê” nghĩa là vẫn có khả năng tồn tại trải
nghiệm tri giác có trật tự chăng? Tuy nhiên các cận tử nhân trong tình trạng
ấy lại có một trải nghiệm rất thật, rất minh mẫn, rất có trật tự. Thật thế, các
cận tử nhân nói rằng họ sáng suốt hơn nhiều so với trạng thái thường ngày
của cuộc sống trần gian. Nhìn chung, y học không thể nào giải thích được
trường hợp TNCT xảy ra trong suốt thời gian bị hôn mê.
2. Các cận tử nhân có thể nhìn thấy và nghe được trong lúc thoát
xác (OBE) và những gì mà họ chẳng kiến gần như luôn có thật. Trải