1
0
Sử dụng phổ biến một dạng đơn giản trình bày nội tại của File như một dòng
các byte cho phép dễ dàng khi viết các chương trình ứng dụng truy nhập, thao tác
với các dữ liệu trong File,
Có kết nối đơn giản với thiết bị ngoại vi: các file thiết bị đã được đặt sẵn
trong Hệ thống File tạo ra một kết nối đơn giản giữa chương trình người dùng với
các thiết bị ngoại vi,
Là hệ điều hành đa người dùng, đa quá trình, trong đó mỗi người dùng có
thể thực hiện các quá trình của mình một cách độc lập.
Mọi thao tác vào - ra của hệ điều hành được thực hiện trên hệ thống File:
mỗi thiết bị vào ra tương ứng với một file. Chương trình người dùng làm việc với
file đó mà không cần quan tâm cụ thể tên file đó được đặt cho thiết bị nào trong hệ
thống.
Che khuất cấu trúc máy đối với người dùng, đảm bảo tính độc lập tương đối
của chương trình đối với dữ liệu và phần cứng, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
người lập trình khi viết các chương trình chạy UNIX với các điều kiện phần cứng
hoàn toàn khác biệt nhau.
1.1.2. Giới thiệu sơ bộ về Linux
Linus Tovalds (một sinh viên Phần lan) đưa ra nhân (phiên bản đầu tiên) cho hệ điều hành
Linux vào tháng 8 năm 1991 trên cơ sở cải tiến một phiên bản UNIX có tên Minix do Giáo
sư Andrew S. Tanenbaum xây dựng và phổ biến. Nhân Linux tuy nhỏ song là tự đóng gói.
Kết hợp với các thành phần trong hệ thống GNU, hệ điều hành Linux đã được hình thành.
Và cũng từ thời điểm đó, theo tư tưởng GNU, hàng nghìn, hàng vạn chuyên gia trên toàn
thế giới (những người này hình thành nên cộng đồng Linux) đã tham gia vào quá trình phát
triển Linux và vì vậy Linux ngày càng đáp ứng nhu cầu của người dùng.
Dưới đây là một số mốc thời gian quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển hệ
điều hành Linux.
Sau ba năm nhân Linux ra đời, đến ngày 14-3-1994, hệ điều hành Linux phiên bản
1.0 được phổ biến. Thành công lớn nhất của Linux 1.0 là nó đã hỗ trợ giao thức mạng
TCP/IP chuẩn UNIX, sánh với giao thức socket BSD- tương thích cho lập trình mạng.
Trình điều khiển thiết bị đã được bổ sung để chạy IP trên một mạng Ethernet hoặc trên
tuyến đơn hoặc qua modem. Hệ thống file trong Linux 1.0 đã vượt xa hệ thống file của
Minix thông thường, ngoài ra đã hỗ trợ điều khiển SCSI truy nhập đĩa tốc độ cao. Điều
khiển bộ nhớ ảo đã được mở rộng để hỗ trợ điều khiển trang cho các file swap và ánh xạ
bộ nhớ của file đặc quyền (chỉ có một ánh xạ bộ nhớ chỉ đọc được thi hành trong Linux
1.0).
Vào tháng 3-1995, nhân 1.2 được phổ biến. Điều đáng kể của Linux 1.2 so với
Linux 1.0 ở chỗ nó hỗ trợ một phạm vi rộng và phong phú phần cứng, bao gồm cả kiến
trúc tuyến phần cứng PCI mới. Nhân Linux 1.2 là nhân kết thúc dòng nhân Linux chỉ hỗ
trợ PC.
Một điều cần lưu ý về các đánh chỉ số các dòng nhân (hệ điều hành) Linux. Hệ thống
chỉ số được chia thành một số mức, chẳng hạn hai mức như 2.4 hoặc ba mức như 2.2.5.
Trong cách đánh chỉ số như vậy, quy ước rằng với các chỉ số từ mức thứ hai trở đi, nếu
là số chẵn thì dòng nhân đó đã khá ổn định và tương đối hoàn thiện, còn nếu là số lẻ thì
dòng nhân đó vẫn đang được phát triển tiếp.