GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN - Trang 67

tự nhiên ở thế kỷ XX, nhất là sự ra đời hình học phi Ơclít, thuyết tương đối, cơ học
lượng tử, phương thức tư duy truyền thống đã bị tác động rất mạnh. Các phương pháp
toán học, phương pháp lôgíc toán trở thành phương pháp đặc biệt quan trọng trong khoa
học tự nhiên. Tuyệt đối hóa điều đó, một số nhà triết học đã cho rằng, chính việc nghiên
cứu các phương pháp đó mới là nhiệm vụ, nội dung chủ yếu của triết học. Thậm chí có
nhà triết học còn cho rằng, việc toán học hóa, lôgíc học hóa triết học mới là lối thoát của
triết học hiện đại.

Trong các nhà triết học chủ trương lôgíc học hóa triết học có một số người nhấn

mạnh việc phân tích ngôn ngữ. Trường phái coi việc phân tích lôgíc ngôn ngữ là nội
dung trung tâm của triết học được gọi là chủ nghĩa thực chứng mới, hoặc triết học phân
tích
.

Triết học phân tích được hình thành vào đầu thế kỷ XX. Trong số các nhà sáng

lập thì Rơtxơn

*

Uýtgen Xten là hai người có ảnh hưởng lớn. Rớtxơn coi nhiệm vụ phân

tích hình thức và phân tích lôgíc là nội dung chủ yếu của triết học. Ông chủ trương lấy
lôgíc toán - lý hiện đại làm cơ sở sáng tạo ra ngôn ngữ nhân tạo để đảm bảo sự nhất trí
giữa cấu trúc cú pháp của mệnh đề và hình thức lôgíc của nó.

Đến những năm 20 của thế kỷ XX, trong triết học phân tích đã xuất hiện một chi

phái lớn: Chủ nghĩa kinh nghiệm lôgíc, hoặc còn gọi là chủ nghĩa thực chứng lôgíc.

Chủ nghĩa thực chứng lôgíc sử dụng những thành quả của toán học, đặc biệt là

của lôgíc toán lý từ đầu thế kỷ XX đến nay, đem tất cả các tri thức quy thành các mệnh
đề có thể dùng lôgíc toán để biểu thị. Trên cơ sở đó, triết học chỉ còn nhiệm vụ tiến hành
sự phân tích kết cấu lôgíc đối với tất cả mọi mệnh đề khoa học dựa trên các tài liệu thực
chứng (kinh nghiệm).

Trước và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trong triết học phân tích đã xuất hiện phái

ngôn ngữ học thường ngày. Các đại biểu của phái này đều là các giáo sư trường Đại học
Oxpho (Oxford) cho nên trường phái đó cũng được gọi là trường phái Oxpho. Những
người theo chủ nghĩa thực chứng lôgíc thường phê phán các khái niệm của ngôn ngữ tự
nhiên là mơ hồ, không rõ ràng, nên không phù hợp với tư duy chính xác. Trái lại, trường
phái ngôn ngữ lại nhấn mạnh tính phong phú của khái niệm và sự phân biệt tỉ mỉ giữa
các khái niệm trong ngôn ngữ tự nhiên. Nếu chủ nghĩa thực chứng lôgíc quy nhiệm vụ
triết học thành sự phân tích lôgíc, thì trường phái ngôn ngữ luôn luôn quy triết học thành
sự phân tích ngôn ngữ tự nhiên, cả hai đều phủ định ý nghĩa thế giới quan của triết học.

Các trường phái triết học khoa học có ảnh hưởng lớn đến triết học phương Tây,

bao gồm các đại biểu như Pốppơ, Cun và Lacatốt, v.v.. Học thuyết, quan điểm của họ
không giống hệt nhau, nhưng cái giống nhau ở họ là đều phản đối chủ nghĩa thực chứng
lôgíc, vì chủ nghĩa thực chứng lôgíc chỉ tiến hành phân tích lôgíc ở trạng thái tĩnh đối

*

Russel Bertrand (1872 - 1970): Nhà toán học, triết học, xã hội học, nhân văn Anh. Giải thưởng Nôben Văn học

1950, từng là Chủ tịch Tòa án quốc tế xử tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Việt Nam (B.T).

66

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.