VI- Bản chất và hiện tượng
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng
Bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất
nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự
vật. Hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra "bên ngoài" của bản chất.
Thí dụ: Bản chất một nguyên tố hóa học là mối liên hệ giữa điện tử và hạt nhân,
còn những tính chất hóa học của nguyên tố đó khi tương tác với các nguyên tố khác là
hiện tượng thể hiện ra bên ngoài của mối liên kết giữa điện tử và hạt nhân. Trong xã hội
có giai cấp, bản chất của nhà nước là công cụ thống trị giai cấp, bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị. Nhưng tùy theo tương quan giai cấp và địa vị của giai cấp trong lịch sử
mà sự thống trị đó được thể hiện dưới hình thức khác nhau.
Bản chất quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư
bản là quan hệ bóc lột. Giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư do người công nhân làm
ra. Nhưng biểu hiện của quan hệ này ra ngoài xã hội là quan hệ bình đẳng, hai bên được
tự do thỏa thuận với nhau. Người công nhân có quyền ký hoặc không ký vào bản hợp
đồng với nhà tư sản. Thậm chí nhà tư sản còn chăm lo đến sức khoẻ của người công
nhân và gia đình họ nếu điều đó có lợi cho việc tăng khối lượng giá trị thặng dư.
Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất với
cái chung. Có cái chung là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản chất. Thí dụ:
Mọi người đều là sản phẩm tổng hợp của các quan hệ xã hội, đó là cái chung, đồng thời
đó là bản chất của con người. Còn những đặc điểm về cấu trúc sinh học của con người như
đều có đầu, mình, và các chi... đó là cái chung, nhưng không phải bản chất của con người.
Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng một bậc (xét về
mức độ nhận thức của con người). Tuy nhiên bản chất và quy luật không đồng nhất với
nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất.
Bản chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn và phong
phú hơn quy luật.
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại một cách khách quan. Quan điểm duy tâm
không thừa nhận hoặc không hiểu đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng.
Những người duy tâm chủ quan cho rằng, bản chất không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là
tên gọi trống rỗng do con người bịa đặt ra, còn hiện tượng dù có tồn tại nhưng đó chỉ là
tổng hợp những cảm giác của con người, chỉ tồn tại trong chủ quan con người. Những
người theo chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận sự tồn tại thực sự của bản chất
nhưng đó không phải là của bản thân sự vật mà theo họ đó chỉ là những thực thể tinh
thần. Thí dụ: Platôn cho rằng, thế giới những thực thể tinh thần tồn tại vĩnh viễn và bất
biến là bản chất chân chính của mọi sự vật. Những sự vật mà chúng ta cảm nhận được chỉ
là hình bóng của những thực thể tinh thần mà thôi. Những quan điểm này không được
khoa học và thực tiễn thừa nhận.
113