qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới có
thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều
kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không
được điều hoà mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình
độ phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải
quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt,
phải chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác, phải tích cực thúc đẩy các điều kiện
khách quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn
khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải
quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp
với điều kiện cụ thể.
IV- Quy luật phủ định của phủ định
1. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình phát sinh, phát
triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó gọi là
phủ định.
Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và
phát triển. Trong lịch sử triết học, tùy theo thế giới quan và phương pháp luận, các nhà
triết học và các trường phái triết học có quan niệm khác nhau về phủ định. Có quan
điểm cho rằng, sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ hầu như lặp lại toàn bộ quá trình của
sự vật cũ. Có quan điểm coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, chấm dứt
hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, cho rằng
sự chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh
thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự
vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát
triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của phủ định sự vật cũ. Điều
đó cũng có nghĩa sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra
đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là mắt
khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
Đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là tính khách quan và tính kế thừa.
Phủ định biện chứng mang tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định nằm
ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết những mâu thuẫn bên trong
sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển, vì thế, phủ định
biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát triển của sự vật.
Đương nhiên, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tùy thuộc vào sự giải quyết
mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ
131