GIÁO TRÌNH TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN - Trang 168

khác biệt ấy tự nó không tạo ra sự đối lập về mặt xã hội. Chỉ có những giai cấp xuất
phát từ sự khác biệt căn bản về lợi ích mới tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất
đối kháng. Mác chỉ ra rằng: "Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn
phát triển lịch sử nhất định của sản xuất
"

1

. Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước

hết là do nguyên nhân kinh tế.

Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động

rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại họ phải sống
nương tựa vào nhau theo bầy đàn lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện.

Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công cụ

sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động nhờ đó tăng
lên đáng kể, phân công lao động xã hội từng bước hình thành, của cải dư thừa xuất hiện,
những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm
của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã,
đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.

Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết

như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ phục vụ những người giàu và có địa vị trong xã
hội, chế độ có giai cấp chính thức hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư
hữu là nguyên nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối
kháng gắn với chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề khiến cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái
cơ sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển
xã hội. Đó là lôgíc khách quan của tiến trình phát triển lịch sử.

c) Kết cấu xã hội - giai cấp

Các xã hội có đối kháng giai cấp lần lượt thay thế nhau trong lịch sử. Mỗi kiểu xã

hội đó có kết cấu xã hội - giai cấp riêng của nó. Mỗi kết cấu xã hội - giai cấp của một xã
hội nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là chủ nô và nô lệ trong chế
độ nô lệ, địa chủ và nông
nô trong chế độ phong kiến, tư sản và vô sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa. Hai giai cấp
cơ bản của mỗi chế độ kinh tế - xã hội là sản phẩm đích thực của chế độ kinh tế - xã hội
đó, đồng thời là những giai cấp quyết định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống sản
xuất trong xã hội đó. Giai cấp thống trị là giai cấp tiêu biểu cho bản chất của chế độ
kinh tế - xã hội đang tồn tại. Ngoài hai giai cấp cơ bản, mỗi kết cấu xã hội - giai cấp
còn bao gồm một số giai cấp không cơ bản và tầng lớp trung gian. Trong những tập
đoàn xã hội này có tập đoàn là tàn dư của phương thức sản xuất cũ (như nô lệ trong
buổi đầu của xã hội tư bản), có tập đoàn là mầm mống của phương thức sản xuất
tương lai (như giai cấp tư sản và giai cấp công nhân công trường thủ công trong giai
đoạn cuối của xã hội phong kiến). Ngoài ra bất cứ xã hội có giai cấp nào cũng có một

1. C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.28, tr. 662.

167

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.