luận tiến bộ và cách mạng mới. Đó là lý luận thể hiện thế giới quan cách mạng của giai
cấp cách mạng triệt để nhất trong lịch sử, do đó, kết hợp một cách hữu cơ tính cách
mạng và tính khoa học trong bản chất của mình; nhờ đó, nó có khả năng giải đáp bằng lý
luận những vấn đề của thời đại đặt ra. Lý luận như vậy đã được sáng tạo nên bởi C.Mác
và Ph.Ăngghen, trong đó triết học đóng vai trò là cơ sở lý luận chung: cơ sở thế giới
quan và phương pháp luận. "Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khi vật chất
của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình"
1
2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên
a) Nguồn gốc lý luận
Để xây dựng học thuyết của mình ngang tầm cao của trí tuệ nhân loại, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Lênin
viết: "Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chỉ ra một cách hoàn toàn rõ ràng rằng
chủ nghĩa Mác không có gì là giống "chủ nghĩa tông phái", hiểu theo nghĩa là một học
thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn
minh thế giới". Người còn chỉ rõ, học thuyết của Mác "ra đời là sự thừa kế thẳng và trực
tiếp những học thuyết của những đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế
chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội"
2
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và
Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng là những người theo học triết học Hêghen. Sau
này, cả khi đã từ bỏ chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen, các ông vẫn đánh giá cao
tư tưởng biện chứng của nó. Chính cái "hạt nhân hợp lý" đó đã được Mác kế thừa bằng
cách cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lý luận mới của phép biện chứng -
phép biện chứng duy vật. Trong khi phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, C.Mác đã
dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật triết học mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật
triết học của Phoiơbắc; đồng thời đã cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính chất
siêu hình và những hạn chế lịch sử khác của nó. Từ đó Mác và Ăngghen xây dựng nên
triết học mới, trong đó chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau một
cách hữu cơ. Với tính cách là những bộ phận hợp thành hệ thống lý luận của triết học
Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng đều có sự biến đổi về chất so với nguồn gốc
của chúng. Không thấy điều đó, mà hiểu chủ nghĩa duy vật biện chứng như sự lắp ghép
cơ học chủ nghĩa duy vật của triết học Phoiơbắc với phép biện chứng Hêghen, sẽ không
hiểu được triết học Mác. Để xây dựng triết học duy vật biện chứng, Mác đã cải tạo cả
chủ nghĩa duy vật cũ, cả phép biện chứng của Hêghen. Mác viết: "Phương pháp biện
chứng của tôi không những khác phương pháp của Hêghen về cơ bản mà còn đối lập
hẳn với phương pháp ấy nữa"
1
. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi phép siêu hình, Mác
1. C.Mác và Ph. ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr. 589.
2. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, Mátxcơva, 1980, t.23, tr. 49 - 50.
1
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr. 35.
49