cảm thụ chủ quan và thái độ ứng xử của cá nhân nên chủ nghĩa hiện sinh không chú
trọng nghiên cứu nhận thức khoa học. Trái lại chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, những tri
thức thu được bằng khoa học dựa trên lý tính là hư ảo. Người ta càng dựa vào lý tính và
khoa học thì càng khiến mình bị chi phối, từ đó bị tha hóa. Theo họ, để đạt đến hiện sinh
chân chính thì chỉ có thể dựa vào trực giác phi lý tính. Chỉ có trong cuộc sống đau khổ,
cô đơn, tuyệt vọng, sợ hãi... con người mới có thể trực tiếp cảm nhận được sự tồn tại
của mình. Như vậy, nhận thức luận của chủ nghĩa hiện sinh là nhận thức duy tâm chủ
quan phi duy lý.
Về luân lý, chủ nghĩa hiện sinh phản đối mọi hình thức quyết định luận trong đạo
đức, phủ nhận sự tồn tại phổ biến của những nguyên tắc đạo đức.
Chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, tự do là bản chất của sự hiện sinh của cá nhân con
người. Giá trị hiện sinh của cá nhân được thể hiện trong sự lựa chọn tự do của cá nhân.
Tự do của cá nhân không phục tùng Thượng đế hoặc bất cứ quyền uy nào và cũng
không chịu sự ràng buộc của bất cứ tính tất yếu khách quan nào. Nó là tuyệt đối. Như
vậy quan điểm về tự do của chủ nghĩa hiện sinh là quan điểm của chủ nghĩa cá nhân cực
đoan.
Về quan điểm lịch sử xã hội, chủ nghĩa hiện sinh xuất phát từ tự do cá nhân tuyệt
đối, cho rằng chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân thực, xã hội chỉ là một phương thức
hiện sinh của cá nhân, hơn nữa là phương thức hiện sinh không chân thực. Bởi vì, khi
giữa xã hội và cá nhân có liên hệ chặt chẽ thì sự tồn tại của cá nhân sẽ không còn là cá
nhân thực sự mà là cá nhân đã bị đối tượng hóa, bị mất cá tính do bị ràng buộc với
người khác và với xã hội, là cá nhân bị tập thể, xã hội và người khác lấn át. Do đó, tồn
tại xã hội đã bóp chết hiện sinh chân chính của con người. Để khôi phục sự hiện sinh
của mình, con người cần thoát khỏi sự ràng buộc của những người khác và xã hội. Xã
hội chính là sản vật tha hóa của con người, bản thân nó không phải là cái tồn tại khách
quan tự thân phát triển theo quy luật, mà chỉ là một mớ ngẫu nhiên những con người bị
tha hóa. Động lực phát triển của lịch sử tất nhiên là không nằm trong xã hội, mà là ở
hiện sinh mỗi con người và nó cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ, rộng rãi đối với thế giới
phương Tây, và cả một số châu lục khác.
Từ cuối những năm 60 đầu những năm 70 thế kỷ XX, chủ nghĩa hiện sinh tuy đã
suy thoái nhưng những tư tưởng của nó vẫn tiếp tục có ảnh hưởng trong khoa học nhân
văn, triết học và khoa học xã hội ở nhiều nước phương Tây. Giải pháp của chủ nghĩa
hiện sinh đối với các vấn đề xã hội về cơ bản là tiêu cực. Nhưng các nhà hiện sinh đã
đóng vai trò tích cực khi họ đặt ra và đề cao nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề bản chất
con người, về sự tha hóa do sự thống trị của kỹ thuật, v.v.. Đặc biệt cũng như việc họ
thức tỉnh mọi người phải trăn trở về ý nghĩa của cuộc sống và về các hiện tượng bất hợp
lý trong xã hội tư bản hiện đại.
69