8. Nghiên cứu (nhóm cổ phiếu, tỷ lệ P/E, xếp hạng cổ phiếu…). Đây là
nguyên nhân khiến ông thua lỗ 9.000 đô la khi mua cổ phiếu Jones &
Laughlin.
9. Chuyên môn (diễn biến giá). Đây là nghiên cứu mang lại thành công lớn
nhất.
ông tiếp tục phát triển các chiến lược và nguyên tắc của mình. Cuối cùng
những nỗ lực của ông cũng được đền đáp. Từ năm 1952 tới đầu những năm
1960, ông tham gia tích cực trên thị trường. ông kiếm được 2.450.000 đô la
lợi nhuận khi bắt đầu tham gia trên thị trường với việc giao dịch cổ phiếu
Brilund. Trong vòng 18 tháng, ông đã kiếm được số tiền lên tới 2.250.000
đô la sau khi ông đã mắc một số sai lầm và sau đó cải thiện các chiến lược
kinh doanh của mình. ông thành công và trở nên nổi tiếng đến mức Sở Giao
dịch chứng khoán Hoa Kỳ thậm chí còn phải tạm thời không cho ông sử
dụng quỹ dự phòng ngăn tổn thất (sẽ được đề cập sau trong chương này).
Khi những chiến lược mà Darvas áp dụng để thu được khoản lợi nhuận béo
bở trở nên phổ biến thì nhiều người bắt đầu giao dịch theo phương pháp
của ông và áp dụng khoản dự phòng thua lỗ. Khoản dự phòng này được
nhiều người áp dụng đến mức nếu tất cả đồng loạt sử dụng nó thì một loạt
cổ phiếu sẽ được bán ra. Hành động này sẽ khiến cho cổ phiếu mất giá
nhanh chóng và biến động thất thường trên Sở Giao dịch chứng khoán Hoa
Kỳ và khiến cho Sở Giao dịch phải đình chỉ việc sử dụng các khoản dự
phòng.
Tháng 5 năm 1959, 6 năm rưỡi kể từ khi bắt đầu giao dịch trên thị trường
cổ phiếu và kiếm được hơn 2 triệu đô la lợi nhuận, Darvas được nhắc đến
trong trang kinh doanh của tạp chí Time. Bài báo đó làm xôn xao những
nhà đầu tư ở Phố Wall vì nó đã trình bày chi tiết quan điểm coi nhẹ các
nghiệp vụ đầu tư thông thường ở Phố Wall của ông như tập trung hoàn toàn
vào những cổ phiếu có tỷ lệ P/E thấp, nghe theo lời khuyên của các nhà
môi giới... Qua những thành công mà ông đạt được bài báo cũng tạo ra sự