tay La hojarasca (Bão lá).
Ông cũng tham gia vào “Nhóm Barranquilla”, một nhóm gồm các nhà
báo xuất sắc và thông qua họ, García Márquez bắt đầu tiếp xúc với các tác
giả về sau có ảnh hưởng mạnh mẽ tới ông: Franz Kafka, James Joyce, đặc
biệt là William Faulkner, Virginia Woolf và Ernest Hemingway.
Năm 1954, Mutis, một người bạn, thuyết phục García Márquez trở lại
Bogota tiếp tục làm báo và ông đã có một số phóng sự nổi tiếng. Năm
1955, García Márquez đến Thụy Sỹ làm đặc phái viên của tờ El Espectador.
Sau đó ông tới Ý tham gia học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang
Paris, nơi García Márquez nhận được tin tờ El Espectador bị đình bản và
nhận được vé máy bay về nước. Nhưng García Márquez quyết định ở lại
Paris và sống trong điều kiện vật chất rất khó khăn. Trong thời gian này
ông viết cuốn tiểu thuyết La mala hora (Giờ xấu), đồng thời tách từ cuốn
này viết nên El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư).
Cùng với người bạn thân Plinio Apuleyo Mendoza, García Márquez tới một
loạt các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và viết nhiều thiên phóng sự về
các quốc gia này.
Năm 1958, sau hai tháng ở London, García Márquez quyết định trở về
châu Mỹ vì cảm thấy “những điều huyền thoại đang bị nguội lạnh” trong
tâm trí. Ban đầu ông ở tại Caracas, thủ đô Venezuela, và làm cho báo
Momentos cùng Plinio Apuleyo Mendoza. Chứng kiến vụ đảo chính chống
nhà cầm quyền độc tài Perez Jimenez, García Márquez bắt đầu có ý định
viết về các chế độ chuyên chế ở Mỹ Latinh. Trong một lần về thăm
Barranquilla, García Márquez cưới Mercedes Barcha, người ông đã yêu từ
trước khi sang châu Âu, sau đó họ có hai con trai: Rodrigo sinh năm 1959
và Gonzalo sinh năm 1960. Cũng ở Caracas, ông viết tập truyện ngắn Los
funerales de la Mamá Grande (Đám tang bà mẹ vĩ đại).
Năm 1960, ngay sau khi Cách mạng Cuba thành công, García Márquez
tới quốc gia này làm phóng viên cho hãng thông tấn Prensa Latina và làm
bạn với Fidel Castro.