nhau lời nguyền “Dù sớm hay muộn” của mình.
Trong một cánh rừng liễu hoàn diệp nhỏ, nước ngập sâu như một cái hồ;
rồi dồn hẳn về một góc, từ bờ dốc cao đến cả mét, nước đổ ập xuống xuôi và
bắt đầu chảy róc rách nghe xa. Còn trên mặt hồ lao xao gợn sóng, bóng liễu
hoàn diệp lộn ngược ken nhau san sát trong làn nước như những con rắn nhỏ
liên tục chạy xuống dưới nhưng không thể nào chạy thoát khỏi chính mình.
Dòng suối đã kết chặt tôi với nó, khiến tôi không thể rời xa, vì như thế sẽ
rất buồn.
Tôi rẽ sang một con đường rừng, cỏ ở đây mọc thấp, xanh như thứ cỏ độc,
hai bên sườn có hai vết bánh xe đầy nước đọng.
Trên những cây bạch dương non nhất, mầm đã nhú lên xanh biếc lóng
lánh ứ nhựa thơm nhưng cả khu rừng vẫn chưa nảy lá, và năm nay có một
con chim tu hú đã bay về khu rừng còn trụi lá này: chim tu hú bay về rừng
trụi bị coi là điềm xấu.
Vậy là đã năm thứ mười hai tôi đi qua bãi đẵn cây này thật sớm, khi mùa
xuân chưa kịp khoác áo mới mà chỉ có cây dầu đắng, sen gió và anh thảo đã
đâm chồi.
Những thân cây cao, những lùm cây bụi cho đến các gốc cây - tất cả ở đây
đều thân thuộc với tôi đến mức có cảm giác như bãi đẵn cây hoang dại đã
trở thành một khu vườn cho tôi: mỗi bụi cây, mỗi gốc thông, mỗi thân vân
sam tôi đều âu yếm vỗ về, và tất cả chúng là của tôi, dù tôi có gieo trồng hay
không, đây là mảnh vườn riêng của tôi.
Từ “khu vườn” này của mình, tôi quay trở lại dòng suối và đứng nhìn ở
đây “biến cố trọng đại” của rừng: một cây vân sam cao lớn bị nước chảy
ruỗng hết gốc rễ ngã rạp, vắt ngang lòng suối với toàn bộ những quả cũ quả
mới còn treo chi chít và vô số cành lá rậm rạp; những luồng nước nhỏ vấp
vào từng cành cây rồi chảy đi, vừa gọi nhau vừa nhắc đi nhắc lại: “Dù sớm
hay muộn”...