MỘ TRƯƠNG-CÔNG-ĐỊNH
Xây cất từ năm 1864. Mộ làm bằng đá ong với hồ vôi trộn nước ô-
dước tới nay 100 năm vẫn còn chắc. Lúc làm mộ, trên tấm mộ bia bằng đá
trắng Quảng-Nam, người ta khắc đủ chức tước của Ngài : « Đại-Nam Bình-
Tây Đại-Tướng Quân Trương-Công-Định chi mộ ». Đây là chức do vua Tự-
Đức phong cho Ngài.
Mấy năm về sau kháng-chiến nổi lên chống Pháp, người chủ-trương là
người thuộc hạ cũ của Ngài. Do đó Pháp tới mộ để điều tra hàng chữ kia.
Thông-dịch viên lúc ấy cắt nghĩa làm sao cho Pháp nghe không rõ, mà Pháp
sai lính tới bằm nát hàng chữ ấy và đòi phu nhân của Ngài là bà Trần-thị-
Sanh tới hạch hỏi và làm khó dễ. Rốt cuộc bà bị phạt vạ 10 ngàn quan tiền
viện lẽ rằng từ năm 1862 Pháp và Nam-triều đã giao-hảo, Vua Tự-Đức
không khi nào phong chức ấy cho Trương-Công-Định, chẳng qua là Ông
này tạo ra để cầm đầu phiến-loạn.
Sau mấy mươi năm Pháp thuộc, mộ Trương-Công-Định trở thành
hoang-phế, mộ Ngài được bà Sương-phụ Đốc-phủ-sứ Nguyễn-văn-Hải nhủ-
danh Huỳnh-thị-Điệu sửa chữa và quét dọn sạch sẽ. Sau đó mướn người
khắc mộ-bia theo chức tước của vua Bảo-Đại truy tặng : « Đại-Nam, Phấn
dõng Đại-Tướng Quân truy tặng Ngũ-Quân Quận-Công ». Từ-đó, quần
chúng tự động đến làm lễ bái yết rất đông.
Năm 1956, ông Phó Tỉnh-trưởng Lê-văn-Để có cho sửa sang lại và chỉ-
thị cho một giáo-viên hồi hưu là ông Nguyễn-huỳnh-Mai phụng-đề 2 câu
đối liên :
Mặt tiền : « Trương chí quật-cường, võ liệt nêu cao đất Việt-Định tâm
kháng-chiến, văn mồ chói rạng Trời Nam ».
Mặt hậu : « Huyện Tân-Hòa, khẳng-khái Cần-vương, tờ chiếu ngọc –
Làng Gia-Thuận, thung dung tựu nghĩa, chiếc gươm vàng ».