tế xã hội giữa miền đông và miền tây sẽ mở rộng hơn nữa.
Mà sự chênh lệch về đời sống kinh tế, xã hội giữa khu vực
ven biển và nội địa lại có thể thúc đẩy tiền vốn và nhân tài
chảy sang phía đông. Vì ở đâu trình độ quản lý cao, trình độ
kỹ thuật cao, hiệu quả kinh tế cao, thì ở đó có thể thu hút
được tiền vốn; ở đâu cơ hội cung cấp cho nhân tài nhiều,
ở
đó có thể thu hút được nhân tài. Đứng trước áp lực và thách
thức này, chúng ta cần phải có cảm giác bức bách và cảm
giác nguy cơ mãnh liệt. Ông cho rằng, khu vực miền tây
giống như Quý Châu ngoài tận dụng đầy đủ thế mạnh
năng lượng, tài nguyên của mình ra, còn có thể tận dụng cơ
hội khu vực ven biển sau khi tham gia vào vòng tuần hoàn
lớn kinh tế quốc tế, thị trường thay đổi lôi kéo theo vòng
tuần hoàn lớn kinh tế trong nước này.
Chắc chắn, một người sinh trưởng ở Giang Nam như Hồ
Cẩm Đào này mong làm nhà lãnh đạo ở khu vực ven biển,
ven sông. Nào ngờ, số phận luôn an bài ông đến vùng phía
tây: đầu tiên là Cam Túc, sau đó là Quý Châu, về sau nữa
lại tới Tây Tạng xa xôi. Những nơi như vậy, đối với một người
trong lòng tràn đầy hoài bão chính trị mà nói, chịu đựng
khổ sở thì không sợ, nhưng không dễ gì có được thành quả thì
không thể không nói là một sự tiếc nuối. Mặc dù Hồ Cẩm
Đào đã cố gắng rất nhiều ở Quý Châu, nhưng mãi tới khi
ông rời Quý Châu, đời sống kinh tế và xã hội ở đó vẫn
không có mấy thay đổi, chắc chắn là vẫn còn khoảng cách
tương đối lớn so với điều ông mong đợi.
Ông biết làm thế nào?
Có lẽ, vẫn cứ là thủ trưởng cũ của ông là Hồ Diệu Bang
hiểu ông nhất. Tết năm 1987 đến thăm ông, Hồ Diệu
Bang đã nói trước một cách rõ ràng: Trong vòng vài năm