đã dự kiến, khi Malaysia thành lập, Tunku không thể và không
cho phép thiết lập lãnh sự quán Israel.
Tôi lắng nghe dự thảo huấn luyện quân sự của Kidron, song
lại bảo Keng Swee hãy chờ đợi cho đến khi Thủ tướng Ấn Độ Lal
Bahadur Shastri, và Tổng thống Ai Cập Nasser trả lời thư xin hỗ
trợ khẩn cấp để xây dựng lực lượng vũ trang của tôi.
Tôi viết cho Shastri nhờ đưa một cố vấn quân sự đến giúp
chúng tôi thành lập 5 tiểu đoàn. Hai ngày sau, Shastri phúc đáp,
gửi “những lời chúc tốt đẹp chân thành cho hạnh phúc và sự
thịnh vượng của nhân dân Singapore”, nhưng không đề cập đến
thỉnh cầu của tôi. Còn Nasser, trong thư trả lời, ông ngỏ ý công
nhận Singapore là một quốc gia độc lập và có chủ quyền nhưng
cũng không đề cập đến lời yêu cầu một cố vấn hải quân để thiết
lập sự phòng thủ bờ biển của chúng tôi. Tôi nửa tin nửa ngờ, có
lẽ chính phủ Ấn Độ không muốn đứng về phe chống lại
Malaysia. Xét cho cùng Ấn Độ cũng là nước láng giềng khá gắn
bó ở châu Á. Nhưng tôi thất vọng khi Nasser, một người bạn tốt,
đã không tham gia. Có lẽ điều này thể hiện tinh thần đoàn kết
Hồi giáo với các lãnh tụ Hồi giáo Malaysia.
Tôi bảo Keng Swee tiếp tục làm việc với người Israel, song giữ
cho vấn đề này không phổ biến công khai càng lâu càng tốt, để
không gây ra mối ác cảm trong thường dân Hồi giáo Malay ở
Malaysia và Singapore. Một nhóm nhỏ người Israel do Đại tá Jak
Ellazari dẫn đầu đã đến vào tháng 11/1965, tiếp sau đó là một
nhóm sáu người đến vào tháng 12. Để giữ bí mật sự có mặt của
họ, chúng tôi gọi họ là “những người Mexico”. Trông họ cũng
ngăm ngăm đen giống người Mexico.
Chúng tôi phải có một lực lượng tin cậy để tự bảo vệ mình.
Tôi không lo sợ Tunku thay đổi quan điểm mà e ngại những
lãnh tụ Malay có quyền lực khác như Syed Jaafar Albar, người đã