ngoài lĩnh vực luật pháp; đến năm ba, họ học một khóa duy nhất về
luật, Hợp đồng. Và chỉ đến năm cuối, thời khoá biểu mới kín các
khóa học trong lĩnh vực này.
8
Các giảng viên luật còn thấy rằng, đời sống sinh viên làm giảm tính
nghiêm túc cần có ở sinh viên theo đuổi việc học tập chuyên sâu.
Charles Henry Huberich, trưởng khoa luật, muốn khoa của mình vào
năm 1908 sẽ có nhiều sinh viên nhất trong tất cả các khoa, để
chuyển từ Quad (khu văn phòng chung) đến tòa nhà riêng, “phần
nào loại bỏ sự sao nhãng đến từ môi trường đại học”.
9
Cho dù sinh viên Stanford có theo ngành luật hay không, thì khi
chuyên ngành này được cung cấp, số sinh viên trong lĩnh vực khác
tiếp tục chọn vào trường luật đã tạo nên lượng cựu sinh viên đông
đảo. Năm 1909, một cựu sinh viên Stanford sống ở Portland than
phiền rằng “Chúng tôi đang nhận quá nhiều luật sư của Stanford.”
Ông than thở rằng, quá ít cựu sinh viên “tham gia lĩnh vực thương
mại”, đó là một nỗi xấu hổ, ông nghĩ, bởi vì “hoạt động kinh doanh ở
đây là tốt nhất.”
10
Stanford không có khoa kinh doanh tương ứng với khoa luật. Sự
thiếu vắng này là điển hình ở các trường đại học tư tại thời điểm đó
– trường kinh doanh duy nhất là trường Wharton tại Đại học
Pennsylvania – nhưng tình trạng này ở Stanford có vẻ lạ lùng vì nó
là trường đại học chuyên cung cấp một nền giáo dục thực tiễn.
Trong những năm đầu của Stanford, khóa học kinh doanh duy nhất
là khóa học tốc ký được giảng dạy bởi George Clark, người làm việc
trong văn phòng hiệu trưởng trường đại học. Clark, tốt nghiệp Đại
học Minnesota năm 1891, đến Stanford để thực hiện chương trình
thạc sĩ tiếng Latinh. Ngay khi ban quản trị trường biết Clark từng là
chuyên gia tốc ký, ông được xếp vị trí toàn thời gian với vai trò
chuyên gia tốc ký. Năm năm sau, ông được bổ nhiệm làm thư ký
cho chủ tịch Jordan, và sau này được gọi là thư ký đại học và thư ký
học thuật.
11
Năm 1892, Leland Stanford bày tỏ ý muốn rằng, trường nên giảng
dạy cách tốc ký, đánh máy, kế toán và điện tín. Để thực hiện điều