Cũng không phải thượng hoàng sợ hãi gì Chiêm Thành, mà phải đem con cống nạp như Hán Chiêu quân. Việc đến như thế, các ông còn
không rõ sao? Lại phải hiểu thêm rằng, không tình nào sâu sắc như tình cha con cốt nhục. Vậy chớ các ông thương công chúa sao bằng
thượng hoàng thương công chúa? Việc hứa gả công chúa cho quốc vương Chiêm Thành, thượng hoàng có cân nhắc kỹ lưỡng trên cả hai
phương diện nước và nhà. Các ông thiển cận, hiểu sao được cái ý cao sâu của hoàng thượng. Đã không hiểu được lại xui quan gia đổi
mệnh. Tức là xui con chống lại cha. Các ông là rường cột của quốc gia, nắm lễ luật, nắm đạo pháp lại đi xui vua làm điều vô lễ, vô đạo.
Chẳng lẽ làm điều vô đạo ấy, lại giữ được uy tín cho nước hay sao? Tôi chắc là quan Tả giai hiểu nhầm cái nghĩa của uy tín. Nếu có uy mà
không có tín, uy rồi cũng mất. Nhưng nếu có tín, tất có uy. Hãy xem gương nước Nguyên - Mông kia, biết bao lần dùng uy với Đại Việt ta,
nhưng có mảy may tín nghĩa gì với chúng ta. Ba lần dùng uy, là ba lần đại bại! Cho nên, tôi thấy chỉ có nghe lời thượng hoàng, gả công
chúa Huyền Trân cho quốc vương Chiêm Thành là thuận lòng người, hợp đạo trời.
Như dồn hết cả sự khinh ghét của mình đối với những kẻ ngu dốt giữ trọng trách trong bộ máy triều đình, Văn Túc vương nhìn
thẳng vào từng người và văng vào mặt họ những lời không kiêng nể. Nói xong, lưng áo ông đen sẫm lại vì mồ hôi ra ướt đẫm.
Không khí triều hội căng thẳng. Hầu hết các quan mặt tái đi. Không hiểu vì giận Văn Túc vương, hay các quan tự cảm thấy kém hèn.
Trái lại, nhà vua thì tươi nhuần hẳn ra. Ông thầm biết ơn người chú của mình. Và Anh tôn tự nhủ: “Đây là một người thông tuệ hơn đời,
một người vừa trung vừa dũng, phải được cất nhắc vào các cương vị xứng đáng”.
Bầu không khí vẫn im lặng kéo dài. Chính nhà vua cũng muốn những lời nói của Đạo Tái được ngấm sâu vào tim, vào óc của từng
người, để họ thấm thía cái đạo vua tôi và cái nhẽ ở đời.
Một lát lâu sau, quan nhập nội đại hành khiển Trần Khắc Chung mới lên tiếng, ông nói:
- Cầu hôn là đạo thường trong thiên hạ xưa nay. Thuận thì gả, không thuận thì thôi. Vậy mà các ông lăng mạ dân tộc người ta một
cách quá đáng. Mỗi nước có một phong tục tập quán riêng, có tín ngưỡng riêng. Hà cớ gì, người ta không giống mình lại gọi người ta là
man di. Tôi thấy các ông thuần nói theo cái giọng điệu của bọn nhà Tống, nhà Nguyên đối với nước ta để gán cho nước Chàm. Chúng ta
là một nước có văn hiến, nên ta khinh bỉ bọn người gọi ta là man di, là “địch” quốc. Chữ “man” có bộ “trùng”, chữ “địch” có bộ
“khuyển”, tức là nó coi chúng ta như loài sâu bọ, chó má. Vậy là ta đã đánh cho chúng bao phen thất điên bát đảo, mảnh giáp không còn.
Chiêm Thành là một quốc gia độc lập, có nền văn hiến cao. Hãy cứ xem đền tháp, tượng thần, tượng Phật của họ tinh xảo, mỹ lệ đến
chừng nào. Chỉ vài ba trăm người thất tán sang đây, trình diễn vũ, nhạc cũng làm chúng ta rung động, cảm phục. Ai dám bảo Chiêm
Thành là một nước không có lễ, không có đạo?