kích thước xinh xắn khác nhau. Ngoài ra công chúa còn được mang theo một bộ ba chiếc trống đồng, một bộ chín chiếc cồng cùng nhiều
nhạc cụ và cả một ban nhạc theo hầu nàng về Chiêm.
Với các đồ dẫn cưới của Chiêm Thành là cả một rừng các chủng loại cực kỳ sang quý. Những thứ như vàng, bạc, châu báu, kim
cương, ngọc bích, đồi mồi nhiều vô kể và được gọt rũa, tỉa chuốt bởi những bàn tay tuyệt diệu, của những người thợ kim hoàn có một
không hai của kinh đô Chà Bàn. Đặc biệt có những thứ được xếp vào hàng kỳ quan như voi trắng, rùa vàng, chim trĩ trắng - là những thứ
mà Đại Việt chưa từng thấy.
Để cuộc ra đi bớt phần ân hận đối với mảnh đất mà ở đấy công chúa sinh ra và lớn lên, mảnh đất mà từng ngọn cỏ, lá cây đã thấm
máu cha ông bao đời mới tạo dựng lên và giữ gìn được, Huyền Trân đã làm một cuộc hành hương về phần đất phía nam, tức vùng Thiên
Trường tới miền Hoan-Ái. Rồi từ Thăng Long về Kinh Bắc, ghé lộ Hải Đông, quành ra vùng An Bang. Công chúa lên tới cả đỉnh Yên Tử.
Nàng đã đi thăm rất kỹ khu tịnh xá của các thiền sư Trúc Lâm. Đã nghe giảng kinh Phật và đi thăm thung chè, rừng trúc. Một bữa nhà vua
dẫn công chúa leo mãi tới đỉnh Tử Phong. Mặc dù Yên Tử ở trên độ cao ngàn trượng bốn mùa lộng gió, nhưng Tử Phong thì dường như
lại lặng gió, mây lành ở lẫn với người. Và chính nơi đây, vua cha cho dựng am Tiêu. Đứng trên đỉnh Tử Phong công chúa phóng tầm mắt
nhìn mãi về tới vùng Cửa Suốt (Nay là vùng biển Cửa Ông, Quảng Ninh), nơi tướng quân Trần Quốc Tảng trấn giữ rõ mồn một. Tức là cả
một vùng biển phía đông của đất nước nằm trong tầm mắt. Lại nhìn sang hướng bắc, về phía hai tỉnh Lạng (Lạng Sơn và Lạng Giang)
thấy rõ cả đồn canh biên ải. Lòng rộn lên niềm bâng khuâng trước cảnh đất trời Đại Việt mông mênh, Trần Huyền Trân bèn hỏi vua cha:
- “Thưa phụ hoàng, có phải vì phụ hoàng mến cảnh Yên Tử u nhã, nên phụ hoàng mới chọn nơi đây để lập trường phái, hay còn vì
Yên Tử là đỉnh núi cao nhất ở đông bắc này, từ đây có thể phóng tầm mắt ra biển đông hoặc nhìn về biên ải phía bắc. Phải chăng đây là
thâm ý của phụ hoàng để giặc bắc không ngờ, còn phụ hoàng rảnh tay làm việc đạo và cả việc canh chừng cho đất nước?”.
Đức vua lấy chéo áo cà sa lau qua khuôn mặt hiền từ, ngài cũng đưa mắt đảo qua phía biển đông, rồi ngoảnh về phía bắc, phía tây.
Ngài gật gù đáp:
- Bấy lâu ta thường canh cánh bên lòng về việc dân, việc nước. Lên đây ta chỉ muốn rảnh tay làm việc đạo. Ta ước sao hội tụ được
các trí tuệ Đại Việt lại mà nghiền ngẫm về Phật điển, về các đạo Nho, Lão cũng như về nền văn hóa truyền thống của chúng ta. Rồi từ đó
tạo lập lấy nền Đạo của người Đại Việt mình, cho người Đại Việt mình hành hóa. Nền Đạo của ta phải thể được tính quần sinh lợi lạc cho
hết thảy sinh linh trăm họ. Có như thế, ta mới thật sự yên tâm về nền độc lập của nước nhà. Ta hằng mong triều đình có những tay anh
kiệt giúp rập vào cùng với vương huynh con. May thay khoa thi vừa rồi cũng đã kén được một số anh tài, ta tạm yên tâm. Điều mong mỏi
nhất của ta, cốt sao cho dân no, quân mạnh, trên dưới một lòng, cả nước là một nhà, thì lo gì họa phương bắc. Việc ta lập phái Thiền Trúc