nhớ từng lối mòn quen thuộc trong khuôn viên mà sáng sáng chiều chiều nàng thường dạo gót. Nhớ mấy khóm huệ nở sớm, nhớ cây
quất lưu niên. Nhớ dãy xuyên đường và những chùm khánh nhạc treo dưới hàng hiên, gió đung đưa phát ra những âm thanh kỳ ảo. Tất cả
những năm tháng ấu thơ và cả những năm tháng đã trưởng thành, đều diễn lại một cách đầy đủ đến từng chi tiết nhỏ, giống như một
cuốn “Tạp biên thực lục” (Ghi chép các chuyện xảy ra thường ngày, tựa như nhật ký ngày nay) mở ngỏ trong đầu nàng. Rồi nàng lại trở
về với buổi chia tay cùng nhũ mẫu. Công chúa không thể ngờ được cuộc ra đi của mình lại làm nhũ mẫu đau buồn đến thế. Người bà héo
hon, buồn thảm như cái cây đã hết nhựa. Bà chỉ nức nở chứ không kêu gào, không than van oán trách một lời nào. Công chúa an ủi bà
hết lời, và nàng cũng chỉ hiểu ngầm, đây là nỗi đau của người mẹ, khi cảm thấy vĩnh viễn mất đi đứa con yêu của mình. Bà từ chối mọi thứ
tiền bạc, của nả mà công chúa ưu ái ban cho. Công chúa thật không yên lòng, nàng tự nhủ: “Có lẽ ta đi, chỉ ít lâu sau là nhũ mẫu qua
đời”. Linh cảm đó ám ảnh nàng như một đám mây u tối bao phủ trước mắt nàng. Còn kế mẫu Tuyên từ lại thương nàng ở một dạng khác.
Bà là người nghiêm khắc, vốn không quen bộc lộ tình cảm ra ngoài. Nhưng trước giờ ly biệt bà cũng không cầm lòng được.
Miên man nàng lại nghĩ đến Trần Khắc Chung. Thật ra nàng đã cố quên đi mà không quên được. Với con người này, đã có một thời
nàng say đắm đến mê mệt. Ông là người mà nàng tôn thờ và ước ao chiếm lấy. Cái hào quang ông là một vị anh hùng, một tay kiệt liệt dám
xông vào trại giặc trong lúc thế nước ngàn cân treo sợi tóc, càng đốt cháy khát vọng được hiến dâng cuộc đời mình cho chàng. Khắc
Chung như một cái bóng, nàng càng đuổi càng xa. Cuối cùng nàng nhận ra không phải ông ta cao đạo gì. Mà vì có những chuyện gia
đình bê bối, ông ta phải giữ mình. Và chuyện ông ta vào trại giặc cũng không có gì là ghê gớm. Chẳng qua thời thế tạo anh hùng. Chính
vì Khắc Chung lẩn tránh, khiến nàng tức giận, và quyết phải làm một việc gì đây để chàng hối hận. Trong việc nàng chấp nhận hợp hôn
với Chế Mân, bên ngoài ai cũng nghĩ rằng nàng là một người con thuận thảo. Và nàng cũng ý thức được trọng trách mà thượng hoàng
trông đợi. Đúng như vậy, Huyền Trân cảm nhận được việc làm thiện, đức của vua cha, nên nàng tự nguyện gánh lấy phần việc mà vua
cha phó thác. Nhưng trong sâu thẳm của suy tư, nàng ra đi còn là một sự trêu tức, một sự trả thù đối với Trần Khắc Chung. Không những
thế, thái độ của nàng, còn là một sự thách thức đối với triều đình. Chính việc triều đình ngăn cản lại là một cái cớ đẩy nàng tới quyết định
dứt khoát. Dù sao thì Huyền Trân cũng không tránh khỏi được chuyện thường tình nhi nữ. Đôi lúc nàng giật mình kinh sợ vì chuyện phải
xông pha ngàn dặm tới một xứ sở mà ở đấy đầy rẫy sự phản trắc và thù hận. Chính cái buổi xông vào dạ yến để tìm Trương Phóng - một
thám hoa lang mà nàng tưởng sẽ là dịp để nàng từ hôn với Chế Mân. Nhưng khi trông thấy vị thám hoa, nàng đã có ngay một cảm giác
khó chịu. Không hiểu sao, nàng cứ nghĩ rằng khuôn mặt của Trương Phóng được đắp đầy sáp. Đó là một thứ mặt nạ hóa trang. Vậy là
nàng quyết về Chiêm, nhưng với tâm trạng hoang mang rối bời. Cuối cùng, để trấn an, nàng tự nhủ: tử sinh hữu mệnh!
Trong khi công chúa đang đắm chìm vào suy tư và hồi ức, thì Bích Huệ và Thúy Quỳnh ở dưới khoang thuyền cũng rí ráu trò
chuyện. Giống như cô chủ mình, hai cô thuần ôn lại các chuyện cũ trong cung cấm. Những gương mặt quen thuộc trong các đài, sảnh,
viện cũng được các cô nhắc tới. Dường như chưa thể dứt được cái tình của mình với mảnh đất quê hương. Với các cô, từ nay trong ký ức,