hóa cho trăm họ. Chúng tôi nhờ đạo Phật để khai mở cái tâm cho con người hướng họ vào cõi thiện. Đạo Khổng dùng để khai trí. Đạo
Giáo để rèn đức. Ấy là cái đức của thiên nhiên, vũ trụ hòa đồng trong cuộc sống con người. Sở dĩ chúng tôi phải khai phóng cho con
người trước hết có cái tâm thiện, là bởi nếu trí tuệ sung mãn mà trước vẻ đẹp của thiên nhiên con người không xúc cảm được, hoặc thờ ơ
với nỗi đau của đồng loại, tức là dấu hiệu báo trước cho một xã hội cằn cỗi, và rồi cái ác sẽ lên ngôi thống trị. Hòa thượng biết đấy, nước
chúng tôi ba lần đánh thắng quân Nguyên. Nhưng chưa một lần nào vô cớ cất quân vào cõi người khác. Ngay việc với quí quốc đây, các
vua của chúng tôi cũng xử sự như những người có Phật tính cao. Không thiếu gì các tướng lĩnh đòi nam chinh để thu hồi miền đất cũ.
Tuy chiến tranh đã kết thúc hai chục năm, nhưng thượng hoàng chúng tôi vẫn ngăn không cho ai làm cuộc chiến. Nếu nói rằng sợ
phương bắc đe dọa, thì từ năm Quí tỵ (1293), Thế tổ nhà Nguyên băng; Thành tôn lên ngôi, xét mình không đủ lực đã xuống chiếu bãi bỏ
việc tiến quân (Về việc này, Đại Việt sử ký toàn thư chép (Sự việc xảy ra năm Quí tị 1293). Nhà Nguyên sai Binh bộ thượng thư là Lương
Tằng sang dụ vua vào chầu. Vua chối từ đang có bệnh, sai Đào Tử Kỳ đem sản vật địa phương sang biếu. Nhà Nguyên giữ Tử Kỳ ở
Giang Lăng, lập ra An Nam hành sảnh, lấy bọn bình chương sự Lưu Nhị Bạt đô cầm binh đóng ở Tĩnh Giang, đợi tiến đánh. Tháng giêng
năm sau Nguyên thế tổ băng. Thành tôn lên ngôi, xuống chiếu bãi việc tiến quân, thả cho Tử Kỳ về nước). Đó là thời cơ để Đại Việt trở về
phương nam đòi đất. Nhưng liền đó thượng hoàng Nhân tôn lại xuất gia. Người lên Yên Tử để lập trường phái Trúc Lâm như hòa thượng
đã biết. Và ngài cấm ngặt triều đình không được gây sự với bất cứ nước láng giềng nào. Hòa thượng Minh Thái ngừng lời như để thăm dò
ý tứ.
Hòa thượng Du Già lấy làm hài lòng với những kiến giải về đạo Phật, và thiện chí của Đại Việt đối với Champa, ông nói:
- Những người thức giả và cả quốc vương chúng tôi, hết thảy đều thấy được điều hòa thượng nói. Không, chúng tôi không nghi
ngờ gì lòng khoan dung đại độ cúa Trúc Lâm dại xí. Còn miền đất Ô-Lý có đưa về Đại Việt, thật ra cũng là hợp lẽ. Đó là đất Việt Thường
xưa, người Champa lập quốc chiếm lấy, nay trả về cho Đại Việt, coi như vật hoàn cố chủ. Tôi vô cùng kính phục Trúc Lâm đại sĩ, vì người
có bổn tâm chí thiện, người muốn loại trừ tận gốc nạn binh lửa cho con dân hai nước, nên mới có cuộc lương duyên này. Tôi đã hiệp tâm
cùng với Đại sĩ và quốc vương tôi hoàn tất chủ trương, nhưng bị nhiều thế lực cản phá, thành thử công việc trễ tới ngày nay.
- Dù sao thì cũng đã dẫn tới kết cục đáng mừng. Hòa thượng Minh Thái nói. - Có một điều tiểu tăng rất băn khoăn, xin lưu tâm hòa
thượng. Tức là các thế lực kình chống con đường hòa hiếu của hai nước, do những người có thiện tâm xây đắp; sự kình chống đó ngày
càng quyết liệt chứ không hề giảm thiểu. Muốn gìn giữ được hòa bình lâu dài, có hai yếu nhân quan trọng nhất cần phải được bảo vệ.
Xin hòa thượng hết sức lưu tâm. Đó là quốc vương Yaya Sinhavarman và hoàng hậu Paramecvari. Tôi chắc sẽ có sự xúc xiểm làm cho
hoàng hậu Tapasi nổi máu ghen tuông. Sự rạn nứt sẽ từ đó mà ra. Kẻ thù có thể tìm cách ám hại cả quốc vương rồi đổ lỗi cho việc ghen
tuông. Hoặc chúng vu cáo cho hoàng hậu Paramecvari, rồi lấy cớ làm hại bà. Tôi lưu ý rằng, nếu không có kế sách bảo vệ hữu hiệu hai
người đó, công cuộc hòa bình coi như sụp đổ. Cho nên hòa thượng cùng quốc vương phải đề phòng chặt chẽ, giống như người xưa nói: