nhưng là việc phải, không bao giờ ta trách. Ngay cả những điều quấy, được nói qua miệng khanh, ta cũng không thể trách phạt. Ta biết
trong dân chúng, trong quan lại, ngay cả trong triều đình, vẫn còn nhiều điều làm ta áy náy.
Nhữ Hài là một viên quan trẻ nhất triều. Mới hai mươi tuổi đã đựoc vua Anh tôn tin dùng, cất nhắc vào hàng ngự sử trung tán. Vì tài
năng chưa có cơ hội bộc lộ, nên các bạn đồng liêu vẫn tỏ ý không phục. Đôi người làm thơ chế giễu. Việc ấy đến tai, Nhữ Hài chỉ cười.
(Đoàn Nhữ Hài được cất nhắc vào hàng quan trụ cột của triều đình. Nhiều người làm thơ, ngầm có ý phản đối. Trong đó có ý chế giễu
Nhữ Hài có hai câu như:
“Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ.
Khẩu tồn nhũ sú Đoàn trung tán”.
Dịch:
“Đài ngự sử ôn câu cổ ngữ.
Miệng Đoàn trung tán sữa còn hoi”. )
Và chàng cũng tự thú nhận: “Chức quan quá to, so với tuổi của ta, quả là ta còn là một đứa trẻ nít thật”. Gần đây được vua sai khiến,
qua vài việc Nhữ Hài làm vừa ý, nhà vua lại có ý định thăng Nhữ Hài lên hàng ngự sử đại phu, có thể sánh ngang với các vị đại thần
trong háng nhất nhị phẩm. Biết mình còn nhiều người ganh ghét, và Nhữ Hài cũng không muốn vì được nhà vua tin dùng mà lên mặt. Cho
nên chàng cố xin vua hãy khoan thăng bổ. Còn việc nhận xét các bạn đồng liêu trên, dưới, trong ngoài triều chính, Nhữ Hài lại càng cẩn
trọng lắm. Phải nói nhờ có đức cẩn trọng ấy mà Nhữ Hài đứng được vững trên vị trí của mình. Nhưng nó cũng làm cho chàng trai hai chục
tuổi, vướng vào đường công danh ấy già đi tới chục tuổi nữa. Không những chàng phải giữ mồm giữ miệng, giữ từng tư thế cử chỉ cho
đến mọi mối giao du y hệt một nhà tu giữ đạo. Về khía cạnh này, Nhữ Hài là mặt trái của Trần Khắc Chung. Khắc Chung phóng túng hào
hoa, tới mức như chẳng cần gìn giữ một tý gì trong cương vị của mình.
Mải đắn đo cân nhắc, Nhữ Hài chợt nhớ câu hỏi của thượng hoàng bèn kính cẩn đáp:
- Muôn tâu thượng hoàng, theo thiển ý của thần thì dân chúng các châu Hoan, Ái trong hai cuộc kháng Nguyên vừa qua, đã tỏ ra
xứng đáng là phên dậu của triều đình. Các nhà đã đóng góp tới suất đinh cuối cùng, đồng tiền bát gạo cuối cùng cho triều đình đánh
giặc. Vì vậy sức dân hầu như đã kiệt. Sau chiến tranh, triều đình có tha tô, thuế một phần nhưng nhiều năm hạn hán, bão lụt, mất mùa,