tiếp cận ông. Theo giới báo chí, ông là một người bí ẩn và trầm tĩnh
của Phố Wall.
Vào thời điểm này của lịch sử, từ đầu thế kỷ cho đến cuối
những năm 1920, mọi người thường góp vốn chung vào những nhóm
cổ phiếu khác nhau. Các nhà đầu tư và những người trong ngành
thường chung vốn cổ phiếu trong những tình huống cụ thể. Góp
chung vốn nhằm điều tiết những biến động có thể xảy ra nếu
các cổ phiếu lâu nay bị tích trữ được chào bán trên thị trường với
khối lượng nhỏ. Ít nhất, đó là lý thuyết của các nhà thúc đẩy thị
trường: Góp chung vốn tạo ra một thị trường trật tự. Thực tế, họ
phần lớn chỉ quan tâm đến việc khẩn trương bán cổ phiếu ra công
chúng, với mức giá tốt nhất có thể.
Khi các cá nhân trên thị trường không muốn góp vốn nữa, họ
thường gặp các nhà kinh doanh chuyên nghiệp như Livermore nhờ
bán cổ phần. Các nhà kinh doanh chuyên nghiệp thường thu phí.
Livermore thích nhận được nhiều lệnh nhờ mua bán trên thị trường
cùng một lúc để ông có thể mua cổ phần với giá ấn định trước. Khi
giá cổ phần tăng trên thị trường, ông có cơ hội mua cổ phần với giá
thấp hơn từ những cá nhân đến nhờ ông bán giúp, thực hiện các
lệnh mua bán và thu tiền về. Ông thường dùng tiền của mình để
thiết lập thị trường phân phối cổ phiếu. Theo cách đó, ông không
phải giải thích hoạt động kinh doanh với bất kỳ ai.
Thao túng thị trường là hiện tượng tất yếu trên thị trường cổ
phiếu ở giai đoạn chuyển sang thế kỷ mới và không có quy định
chặt chẽ nào cấm loại hình kinh doanh này. Người ta không coi đó là
hoạt động bất hợp pháp với điều kiện không một lời phát ngôn
thiếu chính xác nào được đưa ra. Nhưng hoạt động mua bán cổ
phần giả tạo bị xem là bất hợp pháp. Đây là hoạt động mua bán
chứng khoán giữa những người trong ngành trên thị trường. Nó đảo