nó theo mình vào thế giới rộng lớn hơn, và do vậy cướp đi quyền thừa kế
của người Do Thái.
Sự phân đôi Kitô giáo và Do Thái giáo là một quá trình diễn ra từ từ. Ở một
mức độ nào đó, nó được xác định bằng hành động của chính người Do
Thái. Việc củng cố Do Thái giáo xoay quanh việc áp dụng khắt khe Luật
Moses, hậu quả của việc đàn áp chương trình cải cách của nhà Maccabee,
là bối cảnh thiết yếu đối với nguồn gốc và sự hình thành Kitô giáo Do Thái.
Tương tự, việc chủ nghĩa khắt khe Do Thái trôi về phía bạo lực, và cuộc
đụng độ trực diện với thế giới Hy Lạp-La Mã tất yếu theo sau trong các
năm 66-70, cuối cùng đã chặt đứt nhánh Kitô giáo của Do Thái giáo khỏi
cái thân Do Thái của nó. Những đệ tử đầu tiên của Jesus Christ ở Jerusalem
không nghi ngờ gì khi coi mình là người Do Thái. Thậm chí Stephen, người
cực đoan nhất trong số họ, còn khôi phục một số nguyên tắc tri thức của
chương trình cải cách cũ. Trong bài phát biểu biện hộ dài mà ông đọc trước
tòa Sanhedrin, ông nhắc lại quan điểm của các nhà cải cách là Chúa không
thể bị khu biệt hóa trong Ngôi đền được: “Nhưng Đấng Tối Cao hẳn không
phải ngụ nhờ trong những vật tay phàm làm ra, như tiên tri đã nói: Trời là
ngai Ta, đất là bệ chân Ta. Nhà nào, các ngươi sẽ xây cho Ta, Chúa phán,
hay chỗ nào là chỗ an nghỉ của Ta? Há tay Ta đã không dựng nên muôn vật
này hay sao?” Nhưng ngay sau đó, ông gọi đám kết tội mình là những kẻ
“lòng đá tai điếc không cắt bì” - tức người Do Thái xấu xa - và thế là cuộc
công kích và xử tử ông bằng ném đá được thực hiện trong khuôn khổ Do
Thái giáo.
Chương 15 Sách Công vụ các Tông đồ nói rõ rằng khi Paul mới
bắt đầu sứ mệnh truyền giáo, người Kitô Do Thái trong đó có nhiều người
Pharisee kiên quyết cho rằng kể cả những người cải đạo phi Do Thái cũng
nên được cắt bao quy đầu, và phải rất khó khăn Paul mới xin được miễn
cho dân mình.
Ở Judaea, những đệ tử Do Thái của Jesus - họ gần như
chắc chắn gọi mình là thế - tiếp tục được cắt bao quy đầu và tuân thủ nhiều
điều trong Luật Moses cho tới khi xảy ra thảm hoạ vào những năm 66-70.