ngoại phải bịa ra mọi lý do ý thức hệ-chủng tộc để từ chối những lời thách
đấu của họ. Họ luyện tập. Họ thi đấu. Trong hai thập niên đầu tiên của các
kỳ Olympic hiện đại, người Do Thái Đức giành được 13 huy chương vàng
và ba huy chương bạc trong môn kiếm liễu và kiếm chém. Nhà vô địch đấu
kiếm nữ Đức, Helene Mayer, người giành hai huy chương vàng, được gọi
là die blonde He.
Người Do Thái thực tế có thể bị cấm làm sĩ quan, nhưng
họ đã cố gắng hết sức. Những người có ông mình nói tiếng Yiddish, thứ
tiếng không có từ nào là chiến tranh, đã gia nhập quân ngũ trong những
năm 1914-1918 và được tặng thưởng trên 31.500 huy chương Thập tự
Sắt.
Song, sự đồng cảm này của người Do Thái với người Đức ở thế hệ cuối
cùng trước Trận tử chiến, diễn ra trong bối cảnh của một cuộc cách mạng
văn hóa và khoa học vốn đang đi theo một hướng rất khác, và trong cuộc
cách mạng đó người Do Thái được coi là người điều khiển. Cuộc chạy đua
quân sự và hải quân, vốn ngày càng chia rẽ và kích động châu Âu, diễn ra
đồng thời với một cuộc chạy đua trí tuệ, vốn chia rẽ xã hội nói chung.
Phong trào hiện đại, tác động đến mọi lĩnh vực đời sống nghệ thuật và trí
tuệ, đang lấy lại sức mạnh và động lượng. Nó đang trở thành một lực lượng
không thể chống đỡ. Truyền thống và chủ nghĩa bảo thủ tuy không trở
thành một vật thể bất động, nhưng đã mang lại sự kháng cự mạnh mẽ và
ngày càng trở nên giận dữ và bạo lực, khi những đòi hỏi đầy đủ của chủ
nghĩa hiện đại được thể hiện trong thập niên cuối trước năm 1914. Như mọi
người khác, người Do Thái đứng ở cả hai phía của trận chiến. Người Do
Thái mộ đạo, cho dù là Chính thống giáo hay Hasidim, là phần tử có lẽ bảo
thủ nhất, thậm chí phản động ở châu Âu, khi chỉ trích sự thay đổi trong
nghệ thuật và khoa học. Nhưng trong thế giới dân ngoại, không ai đếm xỉa
đến họ, hay thậm chí biết đến sự tồn tại của họ, ngoại trừ có lẽ như một thứ
đồ vật truyền thống mang tính người. Họ coi người Do Thái và tính chất
Do Thái ở mọi nơi là luôn đồng nhất với chủ nghĩa hiện đại dưới dạng cực
đoan nhất của nó.