Song, hai hoạt động này là hai mặt khác nhau của cùng một đồng xu người.
Kinh nghiệm cho thấy người Do Thái di cư chắc chắn sẽ mang đến các tư
tưởng đáng lo ngại, nhưng đồng thời cũng là những người chắc chắn sẽ
mang đến các cách làm mới hoặc hiệu quả hơn để gia tăng sự giàu có cho
một quốc gia. Lịch sử liên tục nói với chúng ta rằng việc di cư và tái định
cư có tác động làm mới ý tưởng và cách làm mọi việc, do đó biến người di
cư thành con người kinh tế hiệu quả hơn. Từ thế kỷ 8 và thế kỷ 7 TCN,
những người chăn gia súc và những người trồng ô-liu Hy Lạp nghèo khó đã
rời bỏ vùng đất cổ xưa của mình, trở thành các lái buôn-khai hoang thành
công khắp vùng Địa Trung Hải. Vào thế kỷ 19, những thành viên thị tộc
vốn đói lả ở vùng cao nguyên Scotland, những người Ireland khốn khổ từ
Clare và Kerry, những người nửa nông nô từ Ba Lan, những người nông
dân không tấc đất từ Mezzogiorno, đã biến thành các công dân dám nghĩ
dám làm ở Ontario và New Zealand, ở Boston, New York và Chicago, ở
vùng Trung Tây, Argentina và New South Wales. Vào thời chúng ta hiện
nay, chúng ta thường xuyên thấy tác động gần như kỳ diệu của sự di cư khi
người Trung Quốc lục địa tới định cư ở Đài Loan và Hồng Công, người
Việt Nam tới California và Úc, người Cuba tới Florida.
Phong trào Cải cách, phong trào phản Cải cách và các cuộc Chiến tranh tôn
giáo đã giẫm lên tổ kiến lửa châu Âu, khiến các cộng đồng nhỏ chăm chỉ
phải bỏ chạy tan tác. Đôi khi, để thoát khỏi việc bị quấy rầy và ngược đãi,
họ chuyển nơi ở hai hay ba lần trước khi có thể định cư lâu dài. Gần như
luôn là vậy, những vùng họ ở lại sau cùng đều phát triển thịnh vượng. Max
Weber và R. H. Tawney từng cho rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại là sản
phẩm của các ý niệm tôn giáo, được gọi bằng các tên khác nhau như “đạo
đức Tin Lành” và “cơn hoảng loạn cứu rỗi” của giáo lý Calvin, cả hai đều
mang tinh thần làm việc chăm chỉ và tích lũy. Nhưng có nhiều phản đối
không thể vượt qua đối với giả thuyết này, và giờ đây có vẻ như chắc chắn
rằng di cư, chứ không phải đức tin giáo phái, là yếu tố chung. Động năng
cho các nền kinh tế quốc gia, nhất là ở Anh và Hà Lan, và sau này là ở Bắc
Mỹ và Đức, được tạo ra không chỉ bởi người theo giáo lý Calvin, mà còn