Nó đi vào ngay trung tâm của đức tin Do Thái và bắt đầu có một số đặc
điểm của một phong trào đại chúng.
Quá trình này được hỗ trợ bởi sự chuyển dịch từ từ của người Do Thái lưu
vong tới Palestine và sự phát triển của một trường học kabbalah ở Safed
thuộc phía bắc Galilee. Học giả nổi bật đầu tiên của nó là David ben
Solomon ibn abi Zimra, từ Ai Cập chuyển tới Safed, và được biết đến dưới
cái tên Radbaz. Moses ben Jacob Cordovero, hay Remak (1522-1570),
cung cấp thần học kabbalah hoàn chỉnh và có hệ thống đầu tiên. Nhưng
thiên tài thực sự của phong trào mới này là Isaac ben Solomon Luria (1534-
1572), hay còn gọi là ha-Ari, Sư tử. Cha ông là người Ashkenazi từ Trung-
Đông Âu, là người tới Jerusalem và kết hôn với một phụ nữ Sephardi. Nên
trong việc truyền bá văn hóa kabbalah, Luria như cây cầu nối giữa hai cộng
đồng Ashkenazi và Sephardi, ông được một người chú làm nghề thầu thuế
nuôi dạy ở Ai Cập. Ông làm nghề buôn bán, chuyên về ớt và ngô. Luria là
một ví dụ tuyệt vời về truyền thống Do Thái khi cho rằng kinh doanh
không phải không tương thích với cuộc sống tri thức, hay thậm chí sự suy
tư thần bí dữ dội nhất. Ông buôn bán và học tập suốt đời. Dấu hiệu cho
thấy sự dân chủ hóa kabbalah là việc ông hấp thụ các truyền thuyết của nó
từ khi còn là một đứa trẻ. Nhưng đến tuổi thanh niên, ông trở thành chuyên
gia về halakhah chính thống, phi huyền bí. Một trong những cái tài của ông
là hóa giải và chuyển dịch dễ dàng giữa hai lĩnh vực này. Ông viết rất ít.
Cuốn sách duy nhất được biết tới của ông là một tác phẩm chú giải cho
“Sách Che giấu” trong Zohar, ông chỉ chuyển tới Safed lúc cuối đời, sau
khi đã dành hai năm 1569-1570 suy tư về Zohar ở một hòn đảo trên sông
Nile. Nhưng khi đã ở Safed, ông làm mê hoặc rất nhiều học trò của mình.
Họ học thuộc lòng những lời dạy của ông và sau này viết chúng ra (như các
học trò của triết gia Wittgenstein trong những năm 1930). Từ ông không
chỉ tỏa ra sự thiêng liêng mà cả sức mạnh và quyền lực. Một số người cho
rằng có thể ông chính là Chúa cứu thế. Ông dường như hiểu được ngôn ngữ
của chim muông. Ông thường chuyện trò với các nhà tiên tri. Ông thường
dạo bộ quanh Safed với học trò, dùng hiểu biết trực giác để chỉ ra những