phiên bản học thuật lẫn phiên bản bình dân của bộ luật, và ông chẳng làm
gì để gia tăng sự đồn đoán về Chúa cứu thế. Nhưng ông cũng viết một nhật
ký thần bí, trong đó một người thầy kỳ diệu hay maggid - Mishnah được
nhân cách hóa - xuất hiện.
Hầu hết các giáo sĩ đều ủng hộ lòng tin vào
Chúa cứu thế, vì không rõ giáo sĩ sẽ đóng vai trò gì, nếu có, trong Kỷ
nguyên Chúa cứu thế. Học trò vĩ đại nhất của Luria, Hayyim Vital (1542-
1620), chắc chắn không nỗ lực đưa thuyết của thầy mình ra trước dân
chúng, ông dành phần sau trong cuộc đời dài của mình để che giấu hầu hết
các bài học mà Luria dạy ông. Tuy nhiên, trong cuốn Book of Visions (Sách
về những giấc mộng) của mình, được ông viết trong các năm 1610-1612,
một tự truyện ghi lại các giấc mộng gần nửa thế kỷ, ông nói rõ rằng mình
tin Luria xứng đáng trở thành Chúa cứu thế, và rằng chính mình cũng có
thể được gọi như vậy. Một giấc mộng kể lại: “Tôi nghe thấy một giọng nói
to: ‘Chúa cứu thế đang tới và Chúa cứu thế đứng trước mặt tôi.’ Người thổi
tù và, hàng ngàn và hàng chục ngàn người từ Israel được đưa đến với
người. Người nói với chúng tôi: ‘Đi với ta và các ngươi sẽ thấy sự báo thù
cho việc phá hủy Ngôi đền.’”
Hơn nữa, vào những năm 1630, hầu hết các
lời dạy của Luria, được Vital và một học trò xuất sắc khác của ông là
Joseph ibn Tabul sửa lại, đã được in thành sách và đọc rộng rãi.
Từ Safed, kabbalah theo trường phái Luria dần lan tới các cộng đồng Do
Thái ở Thổ Nhĩ Kỳ, Balkan và Đông Âu. Ở Ba Lan, nơi có máy in của
người Do Thái ở Lublin và các nơi khác, tác động của nó thật mạnh mẽ và
rộng lớn. Vào cuối thế kỷ 16, nó được coi là một phần quy chuẩn của Do
Thái giáo. Giáo sĩ Joel Sirkes phán trong một responsum rằng “hễ ai phản
đối khoa học kabbalah” thì “sẽ bị rút phép thông công.” Trong nửa đầu thế
kỷ 17, ở các shtetl Do Thái đông đúc và các ghetto ở Ba Lan, Lithuania và
Ukraine, hình thức Do Thái giáo này, với một cực là chủ nghĩa thần bí tri
thức và lòng mộ đạo khổ hạnh còn cực kia là sự mê tín ngu ngốc, đã trở
thành tôn giáo rất quan trọng của cộng đồng.