viên công đoàn và những người xã hội chủ nghĩa Đức xuất thân tầng lớp
lao động. Họ không thích giọng điệu ưu việt trí thức và những khẳng định
tự tin của bà về cái “người lao động” muốn. Bà gạt chuyện này sang một
bên. “Với những người đi theo Marx,” bà viết, “cũng như với tầng lớp lao
động, vấn đề Do Thái theo đúng nghĩa của nó không tồn tại.” Các cuộc
công kích nhằm vào người Do Thái, theo quan điểm của bà, chỉ diễn ra ở
“các ngôi làng nhỏ, xa xôi ở miền Nam nước Nga và Bessarabia - tức là
những nơi mà phong trào cách mạng còn yếu hoặc không tồn tại.” Bà chai
sạn trước các tuyên bố cho rằng bà thông cảm với những hành vi tàn ác
chống lại người Do Thái. “Tại sao các người lại gắn với những rầu rĩ Do
Thái đặc biệt của các người?” bà viết. “Tôi cũng cảm thấy đáng tiếc hệt
như thế đối với những nạn nhân Ấn Độ khốn khổ ở Putumayo, người da
đen ở châu Phi… Tôi không thể tìm thấy một góc đặc biệt trong tim mình
cho ghetto.”
Những méo mó đạo đức và tình cảm của Rosa Luxemburg đặc trưng cho
một trí thức đang tìm cách ép mọi người vào một cấu trúc tư tưởng, thay vì
cho phép tư tưởng được phát triển từ cách người ta thực sự cư xử. Người
Do Thái Đông Âu không phải là một tác phẩm nhân tạo của hệ thống tư
bản chủ nghĩa. Họ là một dân tộc thực sự, có ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa
của riêng mình. Những đau buồn của họ cũng thật, họ bị ngược đãi vì là
người Do Thái chứ không vì một lý do nào khác. Họ thậm chí có đảng xã
hội chủ nghĩa của riêng họ, Bund (viết tắt của Liên minh Công nhân Do
Thái Chung ở Lithuania, Ba Lan và Nga), thành lập năm 1897. Bund tranh
đấu quyết liệt cho các quyền dân sự đầy đủ của người Do Thái. Nhưng các
thành viên của Bund bị chia rẽ về việc liệu người Do Thái có nên được trao
cho một quốc gia tự trị hay không khi “Cộng hoà Công nhân” hình thành.
Họ cũng thấy băn khoăn về chủ nghĩa Zion, và hàng ngũ họ thường xuyên
bị hao hụt do di cư. Do đó, họ có xu hướng sát cánh bảo vệ văn hóa dân tộc
Yiddish.