Với thời gian, Himmler có thể toàn quyền chỉ huy những trung đoàn
thường trực S.S mà không phải qua điều động của Bộ chiến tranh (Bộ quốc
phòng).
Một mật lệnh của Hitler ra ngày 18-8-1938 quyết định các đội quân S.S
không phải là lực lượng thuộc Bộ chiến tranh và cả của cảnh sát. Vậy nó chỉ
phụ thuộc quyền của Himmler. Niên hạn của một lính S.S là 4 năm (do tự
nguyện gia nhập).
Trong thời chiến, những đơn vị S.S được “bộ chỉ huy tối cao quân đội”
sử dụng theo khuôn khổ của “quân đội thời chiến”. Nhưng về mặt chính trị
nó vẫn là một “lực lượng của N.S.D.A.P.”
Và trong trường hợp tổng động viên thì chính Hitler ấn định ngày, quân
số, thể thức “phiên chế cho đội quân S.S vào lực lượng quân đội khi có
chiến tranh xẩy ra, đồng thời vẫn coi S.S là lực lượng chính trị nội bộ.”
Khi lệnh này được ban bố công khai, Himmler đã nhằm đến việc tổ chức
các đội S.S chiến đấu được trang bị các vũ khí chống xe tăng, thành lập
những tiểu đoàn súng máy và tiểu đoàn quân báo.
Tháng 7-1939, Himmler thành lập một trung đoàn pháo binh, chuyển
những đội quân trực chiến thành các đơn vị chiến đấu (Kampftruppen).
Cũng bắt đầu từ tháng 9-1939, chúng đã nói đến chuyện chuyển đội
quân sảnh sát S.S thành lực lượng chiến đấu, và sau này Châu Âu đã thấy rõ
điều đó.
Đầu năm 1940, có nhiều người tình nguyện sung vào lực lượng S.S
chiến đấu, khiến đội quân này đạt đến con số 100.000 người. Trong số đó
có 64.000 người tình nguyện và 36.000 người được gọi nhập ngũ.
Ở Ba Lan, đội quân S.S chiến đấu đã xung trận với sự dã man tàn bạo
mà tên Goering gọi là “sự can đảm điển hình”. Và Himmler được phép
thành lập những đội quân S.S chiến đấu khác nữa. Đội quân S.S chiến đấu
đã tỏ ra là những đội quân dũng mãnh, cứng rắn trong chiến tranh, trở thành
đội quân riêng của cảnh sát, có nhiệm vụ duy trì trật tự vào thời điểm quyết
định. Thực ra so với quân đội, đội quân S.S chiến đấu chỉ có vai trò trong
các vấn đề nội tình của đất nước. Nhưng Hitler lại cho rằng việc “duy trì
trật tự” thường là màn đầu của việc nắm lấy quyền hành vốn thuộc về quân