Quản đốc nhà tù khẩn cấp triệu tập nhiều cuộc họp bàn giải pháp đảm
bảo an ninh cho trung tâm. Ngày 14- 8-1974, Bộ chỉ huy cảnh sát quốc gia
Côn Sơn đã ban hành lệnh cấm trại 100% nhân số và gửi công điện sô
1506/CSQG/CS/HQ thông báo cho các phòng ban trực thuộc, cho Bộ chỉ
huy cảnh sát quốc gia yếu khu Cỏ Ống, Bến Đầm và trung đội cảnh sát dã
chiến tăng phái đế thực hiện.
Trong một tài liệu khác mang tên Biên bản ghi nhận các cuộc xách động,
gây rối, chống đối của các can phạm thụ huấn tại Côn Sơn ngày 7-2-1975,
Trung tá Lâm Hữu Phương, tên chúa đảo cuối cùng đã ghi nhận:
“Từ đầu tháng 1 đến cuối tháng 12-1974 có tất cả 149 vụ chống đối,
xách động và gây rối của các can phạm dưới các hình thức: Hô la tập thể,
đòi nhà cầm quyền phái cung cấp đầy đủ lương thực, thuốc men; tụ họp học
tập, đọc thông báo yêu cầu Chính phủ Việt Nam cộng hòa phái tôn trọng
Hiệp định Paris, đòi phải trao trả tức khắc cho tất cả số can phạm còn (bị)
giam giữ, ca hát những bài ca cộng sán, xuyên tạc quân đội Việt Nam cộng
hòa và đồng minh, hô khẩu hiệu đề cao cộng sản”.
Cũng trong biên bản trên, chúng ghi nhận: “Riêng trong tháng 1-1975 đã
có 11 vụ hô la, chống đối, xách động với các hình thức tương tự như trên
(...) Đặc biệt dã có 12 vụ khám phá các nơi chôn giấu, tịch thu một sô tài
liệu, bài ca cộng sản, cờ Mặt trận Giải phóng miền Nam và một sô vật dụng
khác như: một rađiô 2 băng, một đồng hồ chạy nước, 23 cây sắt nhọn, 50
con dao lớn nhọn, một số dao găm làm bằng cây, một số đồ kịch nghệ, 9
súng AK, 8 súng M16, 15 súng lục, 3 máy điện thoại có ống liên hợp, cần
ăng ten, lựu đạn, bêta, mã tấu, kềm cắt, tất cả đểu bàng gỗ, dây điện và một
sô vật dụng linh tinh tại Phú Tường, Phú Phong, Phú An, Phú Bình và Phú
Hưng” (tức Trại I, Trại V, Trại VI và Trại VII).
Quản đốc Lâm Hữu Phương ráo riết chỉ đạo tăng cường các biện pháp
phòng, thủ, sắp đặt phương án chống bạo động, tố chức lục soát các phòng
giam, truy tìm tài liệu, vũ khí và tiếp tục thanh lọc số tù chính trị thuộc “đối
tượng nguy hiểm” đưa biệt giam tại chuồng cọp Mỹ (Trại VII).