tô, chống sự lộng hành của thôn trưởng, chống đầu cơ tích trữ của các
thương gia và các chủ nợ.
Những cuộc đấu tranh của dân thành thị đề ra khẩu hiệu mọi người
bình đẳng. Có thể kể đến cuộc khởi nghĩa ở Bongô, Hirôshima, cuộc khởi
nghĩa của Ikuta Yôrôsi ở Kashiwadaki, cuộc khởi nghĩa của 2000 nông dân
ở Nôshi thuộc Sêtsu, cuộc nổi dậy của nông dân Omi năm 1842.
Các cuộc khởi nghĩa cho thấy chính quyền Tôkugawa sau mấy thế kỷ
tồn tại đã đến lúc không đủ sức điều hòa các mâu thuẫn xã hội và giải quyết
con đường phát triển xã hội của Nhật Bản.
II. TƯ BẢN PHƯƠNG TÂY MỞ CỬA NHẬT
BẢN VÀ THIÊN HOÀNG MINH TRỊ LÊN
NGÔI
1. Tư bản phương Tây mở cửa Nhật Bản
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Âu-Mỹ đã đòi hỏi mở cửa Nhật
Bản để giao lưu buôn bán. Mỹ lúc này đặc biệt chú ý đến Nhật vì Nhật có
thể thành trạm cho các tàu Mỹ dừng chân để tỏa ra các khu vực Trung
Quốc và Thái Bình Dương. Đô đốc M.C.Perry 1853 đã đưa 4 chiến thuyền
đến cảng Uraga (trong vịnh Tôkyô ngày nay) yêu cầu Nhật Bản cứu trợ và
bảo vệ những thủy thủ Mỹ, mở cửa thông thương, tiếp than cho tàu từ
California đến Trung Quốc. Năm 1854 Perry dẫn 4 chiến thuyền đến và đã
ký hiệp ước Kanagawa buộc Nhật Bản đồng ý mở cửa Shimôda và
Hakodate. Theo đó Mỹ có quyền lấy than, lương thực, nước cho các chuyến
tàu biển qua đó.
Năm 1858 Mỹ ký hiệp ước buôn bán bất bình đẳng với Nhật mở cửa
Êdô, Nigata, Kôbe, Yôkôhama, Osaka và Nagasaki giành được quyền lãnh
sự tài phán và tối huệ quốc về quan thuế. Ít lâu sau Anh, Pháp, Nga và các
cường quốc châu Âu cũng ký hiệp ước với Nhật. Những hiệp ước bất bình