ra, Anh vẫn ở lại Xumatơra và sau này ngày càng thâm nhập kinh tế một
cách mạnh mẽ.
Điều ước trên đã tạo thêm điều kiện cho thực dân Anh xâm lược toàn
bộ Mã Lai. Sau khi đẩy tư bản Hà Lan ra khỏi Mã Lai, thực dân Anh tiến
hành ngay hai việc cơ bản:
- Để để phòng việc tiếp xúc và liên kết giữa các vương quốc Mã Lai
với Xiêm, Anh buộc các Suntan Pêrắc và Sêlango ký hiệp ước chống lại
Xiêm.
- Buộc Pêrắc cắt một số đất cho Anh.
Những lãnh địa Anh chiếm được của Mã Lai hợp thành một tuyến cứ
điểm khống chế chặt chẽ bán đảo và eo biển. Để thống nhất về tổ chức,
thực dân Anh thành lập “lãnh thổ thuộc địa eo biển” bao gồm trung tâm
Xingapo, Malắcca, Pênang. Đứng đầu là tổng đốc người Anh, trực thuộc
Tổng đốc tỉnh Bengan (Ấn Độ).
Năm 1867 vùng thuộc địa eo biển đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của
Bộ thuộc địa Anh.
II. CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ VÀ BÓC LỘT
CỦA ĐẾ QUỐC ANH Ở MÃ LAI
1. Anh xâm lược đất dai và phong trào đấu tranh của nhân dân
Đối với chủ nghĩa đế quốc Anh, Mã Lai không chỉ là cứ điểm chiến
lược và thị trường tiêu thụ, mà còn là nơi đầu tư và khai thác nguyên liệu
vô cùng phong phú. Đặc biệt khoáng sản thiếc phân bố hầu hết miền Trung
và Bắc Mã Lai là nguồn lợi rất lớn. Mã Lai còn có nhiều sản phẩm nông
nghiệp như cao su, dừa, canhkina v.v… Những nguồn tài nguyên lớn này
càng thúc giục đế quốc Anh đẩy mạnh công cuộc chinh phục toàn bán đảo.
Từ năm 1874 đến 1909, thực dân Anh áp dụng chính sách mua chuộc,
uy hiếp và dùng vũ lực mở rộng địa bàn khống chế, buộc các vương quốc