Đã từ lâu, thực dân Pháp muốn đưa giáo sĩ vào để lôi kéo những dân
tộc ít người ở đây, nhưng không có kết quả nên phải dùng biện pháp quân
sự để thu phục. Năm 1899, chúng lập đồn lính và đại lý ở bản Đon trên bờ
sông Xêbốc, ra sức kiểm soát toàn khu vực. Cuộc sống của nhân dân
Bôlôven bị xáo trộn. Vốn là vùng cư dân giàu có, ngoài lương thực, nơi đây
còn có đậu khấu và gai là những cây công nghiệp có giá trị, có nhiều gia
súc, bò lợn. Cuộc sống của nhân dân ở Bôlôven khá đầy đủ, nhưng từ khi
thực dân Pháp kéo đến, bọn chúng và tay sai ra sức bóc lột làm cho đời
sống nhân dân đói khổ. Các thứ thuế đè nặng lên đầu nhân dân. Chế độ phu
phen, tạp dịch làm cho nhân dân điêu đứng. Nạn đói hòành hành, riêng năm
1902 có nhiều nơi số dân bị chết quá nửa. Hai bên bờ sông Huội Padúc đầy
những xác xương khô.
Cuối năm 1900 ở Xaravẳn bắt đầu tiến hành những buổi lễ kỳ lạ trên
ngọn núi Phukham, và xuất hiện một người tên là My có uy tín trong nhân
dân. My là người dân tộc Nghé (một chi của Lào Thơng), sinh ở Chà Bản,
huyện Tha Teng, tỉnh Xaravẳn. Sau khi phong trào bùng nổ, nhân dân tặng
ông cái tên tôn kính: Ong Kẹo (có nghĩa là viên ngọc). Người bạn chiến đấu
và là người có công lớn bên ông là Kommađam đã cùng ông tập hợp lực
lượng chuẩn bị đánh Pháp bằng vũ khí thô sơ, dáo mác, súng kíp, nỏ bắn
tên độc… Đầu tiên nghĩa quân tập kết ở bản Toọc thuộc huyện Xê Roong.
Ngày 12-4-1901 nghĩa quân tấn công đơn vị lính Pháp đóng ở chùa
Tha Teng. 1500 quân khởi nghĩa gồm nhiều tay súng kíp thiện xạ đã vây
đánh đơn vị do tên công sứ Rêmi chỉ huy. Sự kiện này như tiếng súng mở
đầu cuộc đấu tranh anh hùng của nhân dân Nam Lào kéo dài trong 37 năm.
Người Lào Thơng, Lào Lùm cùng toàn thể nhân dân cao nguyên, cả
những nhà sư đều làm lễ mừng, mong mỏi thắng lợi của “con người có
phúc - Phumibun”.
Họ truyền nhau lời chúc tụng thiêng liêng “tống cổ
nhanh chóng tất cả người Pháp”.
Bọn thống trị thực dân hoang mang, chúng phải rút khỏi Xaravẳn,
Bátxắc để tránh đòn bất ngờ. Cuộc khởi nghĩa như vết dầu loang nhanh