hành cuộc chiến tranh du kích. Trong khoảng 1906-1907, những hoạt động
vũ trang của các tổ chức yêu nước Anbani lan ra trong cả nước. Phong trào
vẫn không ngừng tiếp diễn ở Maxêđoan, nhiều đội vũ trang được thành lập,
các nhà dân chủ đề ra chủ trương giải phóng đất nước bằng con đường cách
mạng quần chúng với sự tham gia của các dân tộc đang sống ở Maxêđoan,
kế cả người Thổ.
Ủy ban “Thống nhất và Tiến bộ” của phái “Thổ Nhĩ Kỳ trẻ” cũng đề
ra những yêu sách dân chủ, nhích lại gần các tổ chức cách mạng của các
dân tộc không phải người Tuyếccơ, liên kết với người Ácmian, người
Maxêđoan, người Anbani và các tổ chức khác.
Những mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ngày càng sâu sắc,
thúc đẩy tình thế cách mạng nhanh chóng chín mùi ở Thổ Nhĩ Kỳ. Năm
1907, ở Pari triệu tập đại hội của các tổ chức cách mạng người Tuyếccơ và
các dân tộc khác trong đế quốc Ôxman. Đại hội thông qua nghị quyết về
mục đích và phương pháp đấu tranh chống chính quyền Apđun Hamít II .
Họ khẳng định phải lật đổ Apđun Hamít, thành lập chế độ đại nghị, kêu gọi
chống chính phủ, không nộp thuế, tuyên truyền cách mạng trong quần
chúng và quân đội. Họ chủ trương chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, nhưng
theo quan niệm của họ thì cuộc khởi nghĩa đó chủ yếu là cuộc chính biến
quân sự của lớp trên và khẩu hiệu chính là khôi phục hiến pháp 1876.
2. Cuộc cách mạng năm 1908
Đại hội Pari ra quyết nghị chuẩn bị khởi nghĩa vào mùa thu năm 1909.
Nhưng cao trào của quần chúng đã thúc đẩy cách mạng mau chống bùng
nổ. Ngày 3 tháng 7 năm 1908, viên tư lệnh quân đội ở thành phố Rétxna
(Maxêđoan) là Átmét Niadi thành lập những đội “Phêđaép” và phát động
khởi nghĩa chống Xuntan. Đi theo ngọn cờ của Átmét Niadi còn có sĩ quan
của nhiều đơn vị khác và những đội du kích Anbani. Nghĩa quân chiếm
được hầu hết Maxêđoan, chuyển chính quyền vào tay ủy ban “Thống nhất
và Tiến bộ”, Trong tuyên ngôn của mình, ủy ban công bố khẩu hiệu “Tự