Những biện pháp trên không thủ tiêu được cạnh tranh và khủng hoảng.
Trái lại, sự thống trị của các tổ chức lũng đoạn càng thúc đẩy việc xâm
chiếm thuộc địa. Tới giai đoạn này, chiếm thuộc địa có nghĩa là độc chiếm
nguồn cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ, độc chiếm thị trường đầu tư
và tiêu thụ hàng hóa, xây dựng một cơ sở chắc chắn cho mình trong cuộc
tranh chấp với đối thủ khác. Đó là chưa kể tới ý nghĩa chiến lược về mặt
quân sự và nguồn cung cấp bia đỡ đạn trong những cuộc chiến tranh ăn
cướp. Các nước đế quốc vẫn ráo riết đi tìm thuộc địa ở những vùng đất còn
“bỏ trống”. Các đế quốc “già” không chỉ muốn duy trì thuộc địa cũ mà còn
muốn mở rộng thêm đất đai. Các đế quốc “trẻ” thì đòi hỏi “một chỗ đứng
dưới ánh mặt trời”, không chỉ muốn chiếm vùng đất còn “trống” mà còn
lăm le giành giật thuộc địa của kẻ khác. Nhất là đến đầu thế kỷ XX, việc
phân chia thế giới hầu như đã “hoàn thành” thì các lãnh thổ chỉ có thể đem
chia lại mà thôi.
Cuộc chiến tranh Mỹ-Tây Ban Nha (1898) mở đầu cho thời kỳ này,
thời kỳ chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. Tiếp theo là những cuộc chiến tranh
AnhBôơ (1899-1902). chiến tranh Nga-Nhật (1904-1905) và cuối cùng là
cuộc chiến tranh thế giới 1914-1918 mà trong đó, hầu hết những nước
tham gia là phi nghĩa.
3. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc
V.I.Lênin phân tích một cách khoa học giai đoạn phát triển mới của
chủ nghĩa tư bản, nêu lên bản chất và địa vị lịch sử của nó. Người vạch ra 5
đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa đế quốc là:
- Sự tập trung sản xuất và tư bản đạt tới mức độ phát triển rất cao, tạo
thành những tổ chức lũng đoạn có một vai trò quyết định trong sinh hoạt
kinh tế.
- Sự dung hợp tư bản ngân hàng với tư bản công nghiệp thành tư bản
tài chính.
- Việc xuất khẩu tư bản trở thành đặc biệt quan trọng.