Về mặt thương nghiệp, nước Anh cũng không tránh khỏi hiện tượng
giảm sút so với các nước khác. Trong 20 năm cuối thế kỷ XIX, xuất cảng
của Mỹ tăng 230%, của Đức tăng 40%, thì Anh chỉ tăng 8%. Mặc dầu
chính phủ Anh đã dùng mọi biện pháp (thuế quan, kích thích tinh thần dân
tộc…) để hạn chế, hàng hóa của Đức vẫn chèn được hàng Anh và xâm
nhập cả vào thị trường nội địa nước Anh.
Tuy nhiên, nước Anh vẫn còn giữ được ưu thế về thương mại, bảo
hiểm, ngân hàng và hàng hải. Yếu tố quan trọng duy trì ưu thế đó là hệ
thống thuộc địa rộng lớn. Các thuộc địa bảo đảm cho nước Anh giữ được
vai trò của một “kho tàng” và một trung tâm tài chính thế giới. Số tư bản
xuất khẩu sang các thuộc địa (Ấn Độ, Canada, Úc) và các vùng rộng lớn
khác (Nam Mỹ, nước Mỹ và nhiều nước châu Âu) tăng lên nhanh chóng:
năm 1850 là 200 triệu livrơ xtecling, 1875 là 1.100 triệu và đến 1900 lên
tới gần 2 tỉ, chiếm một nửa tổng số vốn đầu tư của các nước lớn. Số vốn
đầu tư đó mang lại một món lãi khổng lồ cho giai cấp tư sản Anh. Cuối thế
kỷ XIX, số tiền đầu tư ở nước ngoài đã sinh lãi tới 90 triệu livrơ xtecling
trong khi tiên lời do ngoại thương đem lại chỉ có 18 triệu, bằng 1 phần 5.
Nước Anh trở thành nước cho vay nặng lãi và bóc lột thuộc địa. Hậu quả
tất nhiên của nó là số lớn tư bản được chuyển ra nước ngoài, vốn đầu tư ở
trong nước bị giảm sút, nền công nghiệp phát triển chậm chạp. Đó là nguồn
gốc của sự trì trệ trong lĩnh vực kỹ thuật, làm chậm nhịp độ sản xuất công
nghiệp của nước Anh và cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn tới tình trạng
ăn bám, thối nát của chủ nghĩa tư bản Anh.
Cùng trong thời gian này, nông nghiệp Anh lâm vào tình trạng khủng
hoảng không kém. Trước những năm 70, nước Anh còn tự cung cấp được
80% lương thực thì đến đầu thế kỷ XX, gần 65% phải trông vào lúa mì
nhập từ các thuộc địa và các nước khác. Lúa mì nhập từ các thuộc địa rất rẻ
trong khi giá lúa mì sản xuất trong nước rất cao do chế độ thuế khóa làm
cho giai cấp tư sản lao vào việc buôn bán lương thực hơn là đầu tư vào sản
xuất nông nghiệp. Dân số ở nông thôn giảm sút trong khi dân số thành thị