sự của Công ty để phục hồi ngôi báu. Năm 1677, y ký hiệp ước đầu hàng
Hà Lan. Theo hiệp ước này, cảng Sêmarang và tất cả các cảng trong vương
quốc đều nhượng cho Công ty đến khi Amangkurát trả hết nợ quân sự cho
Hà Lan. Ngoài ra, Công ty Đông Ấn Hà còn được quyền đi lại buôn bán tự
do trong vương quốc Mataram. Từ năm 1678, thực dân Hà Lan ráo riết trấn
áp quân khởi nghĩa trong 3 nấm liền, khôi phục vương quốc Amangkurát.
Giữa tình hình hầu hết các lực lượng của Hà Lan đổ dồn vào việc trấn
áp quân khởi nghĩa Tơrunô Giôgiô, người Anh xúi giục và ủng hộ Suntan
Bantam chiếm một số đất của vương quốc Mataram ở Sêribon, Sôli v.v…
Nhưng Hà Lan lợi dụng sự tranh chấp giữa cha con Suntan Bantam, liền
câu kết với con Suntan hứa sẽ giúp giành lấy ngôi vua với điều kiện là phải
để cho V.O.C. độc quyền buôn bán trên đảo Bantam. Cuộc đấu tranh trở
nên quyết liệt, nhưng kết quả cuối cùng là V.O.C. đã giúp Suntan con đánh
bại Suntan cha. Hiệp ước được thi hành. Công ty Đông Ấn Hà hầu như
thống trị toàn bộ Giava. Các thương nhân châu Âu trong đó có người Anh
buộc phải rút khỏi Giava.
4. Cuộc khởi nghĩa Surapátti
Thời kỳ xâm lược của Công ty Đông Ấn Hà chính là thời kỳ Hà Lan
tiến hành công cuộc tích lũy tư bản đầu tiên. Nhờ vào việc buôn bán có tính
chất ăn cướp, thực dân Hà Lan đã thu được những món tiền lời kếch sù.
Chúng còn sử dụng các lãnh chúa phong kiến tay sai vào việc ép buộc nông
dân trồng cây công nghiệp và đặc sản như cà phê Ấn, chàm Ấn v.v… để
xuất khẩu. Nông dân sống khổ cực không có đất cấy lúa, không có gạo ăn
mà phải lao động cho bọn quý tộc và Công ty Đông Ấn Hà. Nhiều nơi nông
dân nổi lên chống lại. Các lãnh chúa bị công ty mua chuộc và giúp sức đã
dùng vũ lực trấn áp, nhổ lúa phá màu, thậm chí còn cướp đất của nông dân
cho người da trắng thuê. Điều này dẫn đến hậu quả có một số quý tộc
phong kiến cùng nhân dân đứng lên đấu tranh chống Hà Lan.