3. Chế độ cướng bức trồng trọt của thực dân Hà Lan
Sau khi khôi phục quyền thống trị, thực dân Hà Lan định lợi dụng
chính sách của Râyphơlít, nhưng không thể nào thực hiện được. Anh và Mỹ
dựa vào lực lượng hàng hóa hùng hậu của mình đánh bại Hà Lan, giành
mất khách hàng. Thu nhập của Hà Lan ở hai nguồn buôn bán và thu thuế
đều bị đe dọa. Năm 1819 thương thuyền của Anh đến Giava có 62 chiếc,
Mỹ có 53 chiếc mà Hà Lan chỉ có 43 chiếc.
Trước nguy cơ Inđônêxia rơi vào tay Anh bằng con đường khống chế
kinh tế, thực dân Hà Lan liền bãi bỏ chế độ Râyphơlít mà thi hành chính
sách bóc lột lạc hậu hơn, thô bạo hơn, nhưng có lợi cho Hà Lan hơn. Trước
tiên là đối với thương nghiệp, chúng giữ quyền ưu đãi và thực hiện chế độ
bảo vệ quan thuế cho các thương thuyền Hà Lan. Nhờ đó, hàng dệt nhập
khẩu của Hà Lan tăng hơn trước, ví dụ: năm 1819 hàng dệt Hà Lan chiếm
1/3 tổng số hàng dệt nhập khẩu, đến năm 1830 đã đẩy lùi được hàng Anh
và chiếm tỉ lệ 2/3.
Về nông nghiệp, Hà Lan áp dụng chính sách bóc lột vô cùng tàn nhẫn.
Đó là chính sách “cưỡng bức trồng trọt” của Vanđen Bốt (Vanđen Bosch),
bắt đầu được thi hành từ năm 1830. Theo đó, nông dân phải dành 1/5 đất
đai để trồng cây công nghiệp do chính phủ thuộc địa quy định như mía, cà
phê, thuốc lá, chàm, cao su v.v… Nông dân bán sản phẩm này lấy tiền nộp
chính phủ thay cho thuế. Nơi nào do công xã quản lý thì toàn thể xã viên
chịu trách nhiệm trồng trọt, chăm sóc và thu hoạch sản phẩm cây công
nghiệp nộp cho chính phủ. Nhưng trên thực tế, đất phải dành cho Hà Lan
chiếm đến 1/2 hay 2/3 đất đai của nông dân hay công xã. Số ngày lao dịch
quy định là 66 ngày, nhưng nông dân thường mất đến hơn hai trăm ngày.
Ngoài phần nộp tô thuế đã quy định cho chính phủ thực dân, nông dân còn
phải nộp thêm phần đảm phụ cho làng xã, sêu tết cung phụng cho địa chủ
và quan lại. Mọi gánh nặng đè lên đầu nông dân khiến cho đời sống của họ
rất khổ cực.