Sự áp bức dân tộc dưới mọi hình thức ở Việt Nam ngày càng
nặng nề, cùng với một nền giáo dục thực dân áp đặt đã khiến cho các
giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam ngày càng bị bần cùng hóa,
không thấy tiền đồ. Cùng với đó là sự thành công của Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917 đánh đổ chế độ Nga Hoàng, lập nên nhà
nước vô sản đầu tiên trên thế giới, làm rung chuyển thế giới cũng tác
động đến con người và xã hội Việt Nam. Tại châu Á, ảnh hưởng của
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Trung Quốc (1925 - 1927); cuộc
vận động dân tộc ở Ấn Độ (1919 - 1921); phong trào đấu tranh của
giai cấp vô sản thế giới, nhất là các cuộc đấu tranh ủng hộ độc lập dân
tộc của các nước... Tất cả đã làm cho các tầng lớp nhân dân lao động
Việt Nam, đặc biệt là những người có tư tưởng dân chủ, dân tộc giải
phóng nhận thấy họ không đơn độc trong cuộc tranh đấu chống lại áp
bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân; thấy rõ con đường giải phóng của
dân tộc, của nhân dân có mối liên hệ mật thiết với nhau; tin rằng thắng
lợi cuối cùng sẽ về tay giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức. Đó
chính là những điều kiện chủ quan, khách quan cho phong trào cộng
sản Việt Nam ra đời và phát triển. Nó cũng chứng minh một thực tế.
Dân chúng muốn có sự liên hiệp các đảng phái, xu hướng để hình
thành một phong trào giải phóng dân tộc rộng rãi đòi tự do, dân chủ,
tiến bộ và dự bị cho bước đường tranh đấu cao hơn sau này.
Nắm chắc tình hình thế giới, trong nước, đặc biệt là nhu cầu độc lập
dân tộc, dân chủ của các tầng lớp nhân dân Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã
đẩy mạnh quá trình thành lập một chính đảng cách mạng thống nhất để lãnh
đạo cách mạng Việt Nam.
Để truyền bá tư tưởng cách mạng, tiến tới thành lập chính đảng
vô sản, Nguyễn Ái Quốc đã giành tâm sức nghiên cứu học thuyết Mác
- Lênin. Tư tưởng cách mạng của Người hình thành trong những năm
20 của thế kỷ XX, được truyền vào Việt Nam là một trong những yếu
tố cơ bản để lập ra Đảng Cộng sản.