của Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể quần chúng không chỉ ở
chỗ có lực lượng đông đảo và giữ được bản chất công - nông mà còn thể
hiện ở việc đề ra và thực hiện thành công những sách lược mềm dẻo, linh
hoạt nhằm tranh thủ những lực lượng có thể tranh thủ, trung lập những lực
lượng có thể trung lập, phân hoá và cô lập triệt để những lực lượng chống
đối, ngoan cố nhất trong hàng ngũ đối phương.
Nêu cao tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến, thực thà đoàn
kết vì lợi ích tối cao của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên
làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của
những người thuộc tầng lớp trên như vua, quan, tư sản, địa chủ yêu nước;
những chức sắc có uy tín trong các tôn giáo, những người lầm đường hoặc
bị cưỡng bức theo địch... Binh vận trở thành mũi đấu tranh sắc bén, kết hợp
chặt chẽ với đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, hình thành phương
châm chỉ đạo, phương thức đấu tranh toàn diện rộng khắp, rất có hiệu lực
của cuộc kháng chiến toàn dân là “hai chân, ba mũi”, “ba vùng”. Những
thắng lợi quân sự trên chiến trường đã khiến hàng ngũ đối phương bị phân
hoá lực lượng, làm suy giảm ý chí của đội quân xâm lược, góp phần tăng
cường thế và lực cho cách mạng.
Đồng bào và chiến sĩ miền Nam trên tuyến đầu Tổ quốc xuyên suốt
cuộc kháng chiến mười ngàn ngày, luôn đấu tranh một mất một còn với kẻ
thù hung bạo với tinh thần hiểm nguy không lùi bước, “uy vũ chẳng chuyển
lay”. Đồng bào miền Nam, trước sau một lòng, một dạ trung thành với cách
mạng, hướng về miền Bắc thân yêu, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc chiến
trường kỳ. Là người mở đầu cuộc trường chinh tự giải phóng của dân tộc,
triệu triệu con em thành đồng Tổ quốc đã nêu cao tấm gương của chủ nghĩa
anh hùng cách mạng mà lịch sử đất nước, dân tộc Việt Nam đời đời ghi
nhớ.
Sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng có vai trò quyết định
trong quá trình tập hợp, phát huy hiệu quả của khối đại đoàn kết toàn dân,
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là Nhà nước,