Phải tự mình đấu tranh mà giành lấy. Vì thế dân tộc ta đã kháng chiến và
phải kháng chiến đến cùng, kỳ cho tiêu diệt hết quân xâm lược"
70
. Lúc này,
khẩu hiệu "tự lực cánh sinh, độc lập, tự chủ" trở thành tâm huyết của mỗi
người dân Việt Nam và được biến thành hành động.
Muốn kháng chiến trường kỳ đi đến thắng lợi, trong khi xác
định dựa vào lực lượng của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
nhận thức được rằng, phải ra sức bồi dưỡng lực lượng, phải làm cho
lực lượng đó ngày càng lớn mạnh, lúc đó mới thực hiện được tự lực
cánh sinh. Từ sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công đến trước
chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, nhân dân đã tự mình xây dựng được một lực
lượng chính trị, quân sự hùng hậu, một nền kinh tế, văn hoá, giáo dục
ngày càng phát triển, một nhà nước tuy còn non trẻ, nhưng mang bản
chất của dân, do dân, vì dân. Trong lò lửa kháng chiến, một nước Việt
Nam mới, độc lập, phú cường đang được rèn đúc.
Với hàng loạt biện pháp trong các lĩnh vực, nền kinh tế được
từng bước phục hồi, nền dân chủ nhân dân được xây dựng, nạn đói,
nạn lụt gây tác hại tới đời sống nhân dân được khắc phục, nền văn hoá
mới - nền văn hoá phục vụ mục tiêu "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc"
được xây dựng, củng cố... đã đáp ứng có hiệu quả nhu cầu của kháng
chiến. Nền kinh tế tự cấp tự túc được đẩy mạnh theo hướng toàn dân
sản xuất, đảm bảo các nhu cầu chủ yếu trong đời sống: Thóc lúa, vải,
giấy. Đồng thời, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng tích cực xây dựng nền
công nghiệp quốc phòng để sửa chữa, sản xuất vũ khí, đạn dược, bảo
đảm cho chiến đấu trên các chiến trường và phục vụ cho chiến tranh
du kích phát triển rộng khắp trong cả nước. Nhờ vậy, sức mạnh của
kháng chiến được tăng cường, đủ sức phá thế bao vây của địch, mở
rộng quan hệ quốc tế.
Từ khi cách mạng Trung Quốc thành công, Việt Nam được các
nước Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân công nhận,